Thất bại trong chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, đế quốc Mỹ tiếp tục leo thang thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ”. Tháng 4 năm 1965, Nhà Trắng quyết định đưa 4 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ vào miền Nam thực hiện cuộc chiến tranh xâm lược. Và ngày 17 tháng 4 năm 1965, tổng thống Mỹ thông qua kế hoạch 3 giai đoạn và kế hoạch “tìm diệt” của tướng Oét - mô - len (Westmoreland) ở miền Nam (thực hiện từ tháng 7 đến cuối năm 1967). Bằng quyết định này, đế quốc Mỹ chính thức thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ” ở Việt Nam. Bộ mặt xâm lược của Mỹ ở miền Nam đã lộ nguyên hình.
Tháng 10 năm 1965, Mỹ bắt đầu đưa hơn nửa triệu quân Mỹ và quân đội một số nước chư hầu ồ ạt tiến vào miền Nam. Đồng thời sử dụng không quân và hải quân mở chiến dịch “Sấm rền”, leo thang đánh phá ra miền Bắc và dọc đường Trường Sơn, hòng ngăn chặn chi viện từ miền Bắc và quốc tế vào miền Nam. Quân Mỹ đã rải hầu khắp chiến trường miền Đông với một hệ thống cứ điểm dày đặc, tiến hành song song hai gọng kìm “tìm diệt và bình định”, nhằm đánh chiếm lại vùng giải phóng và đánh phá vùng căn cứ cách mạng, tiêu diệt lực lượng cách mạng, nhất là lực lượng vũ trang, tập trung hướng chính là các tỉnh phía bắc Sài Gòn, trọng điểm là các tỉnh miền Đông Nam Bộ. Ngày 3 tháng 6 năm 1966, chúng mở cuộc hành quân Alpassoll, ồ ạt đưa một lực lượng lớn quân Mỹ và quân chủ lực Sài Gòn lên Bình Long để thực hiện tìm diệt lực lượng vũ trang cách mạng đang đóng ở vùng ven Hớn Quản.
Ở Hớn Quản, địch nhận thấy sự phát triển mạnh mẽ của phong trào chiến tranh du kích là một trở ngại lớn cho chiến dịch tìm diệt và bình định của chúng. Do vậy, vừa đặt chân lên đây, địch vừa ráo riết xây dựng hệ thống phòng thủ, đồng thời tiến hành ngay hoạt động bình định, nhằm gom dân lập ấp trở lại. Bằng những thủ đoạn tàn bạo, như dùng xe cơ giới ủi sạch nhà cửa, ruộng vườn của nhân dân, dùng máy bay rải chất độc hóa học phá hoại mùa màng. Nhằm ngăn chặn sự liên lạc giữa nhân dân và các lực lượng cách mạng, ở vùng ven, vùng giải phóng, địch dùng bom đạn chà sát tạo thành vành đai trắng buộc nhân dân phải tập trung vào các ấp chúng gọi là “ấp đời mới”, “ấp Tân Sinh” – một kiểu ấp chiến lược nhưng chỉ khác về tên gọi. Mặc dù địch tăng cường lừa bịp bằng cách xây dựng thêm trường học, trạm xá trong các “ấp đời mới”, “ấp Tân Sinh”, nhưng đời sống nhân dân vẫn hết sức cơ cực, vừa bị thiếu thốn lương thực, thực phẩm, vừa mất tự do, nhân dân còn bị bộ máy tề điệp khống chế chặt chẽ. Chúng chia hộ nhân dân thành 3 loại khác nhau để dễ dàng kiểm soát và nhằm tách nhân dân ra khỏi cách mạng. Loại gia đình được chúng coi là thân cộng sản mang bảng đỏ, loại thân chính quyền ngụy mang bảng xanh, loại lừng chừng mang bảng vàng.
Trên tuyến đường 13, đoạn từ Tàu Ô đến Xa Cát thường xuyên bị du kích đắp mô bắn tỉa và cùng với đại đội 70 do các đồng chí Dương Công Bình (Ba Bình) chỉ huy dùng mìn DH10 phá sập cầu, gây khó khăn lớn cho sự vận chuyển của địch từ Chơn Thành và Minh Thạnh lên Hớn Quản. Có lần, dân quân du kích đã xin mìn chống tăng của tỉnh để gài và diệt được 12 xe M113 và M41 của địch, tiêu diệt toàn bộ số lính Mỹ, ngụy trên xe. Vì thế, Quân Mỹ và quân Sài Gòn bố trí các căn cứ đan xen nhau chốt giữ các vị trí xung yếu, các trục lộ giao thông quan trọng. Chúng cho đầu tư, nâng cấp các cơ sở kho tàng của Pháp trước đây thành các căn cứ quân sự kiên cố. Ở phía đông Bắc An Lộc, từ một cơ sở thí nghiệm của đồn điền cao su Quản Lợi, Téc –nich đã được Mỹ xây dựng thành một căn cứ quân sự chiến lược của Sư đoàn Bộ binh Mỹ “Anh Cả đỏ” với một hệ thống công sự, kho tàng, một trận địa pháo hạng nặng và một phi trường quân sự có thể tiếp nhận các loại máy bay từ trực thăng đến C.130.
Ngày 8 tháng 6 năm 1966, quân ta mở Chiến dịch Bình Long, trong suốt thời gian diễn ra chiến dịch, lực lượng du kích xã Minh Đức liên tiếp phối hợp với bộ đội chủ lực, bộ đội tỉnh, huyện tấn công các cứ điểm quân sự của địch ở Xa Cát, Sở Nhì, Sở Ba, Xa Cam phá đường giao thông, tập kích tiêu diệt các trung đội bảo an, bọn tề nguỵ trong ấp chiến lược, hỗ trợ đồng bào phía đông thị xã An Lộc nổi dậy phá banh, phá lỏng các ấp chiến lược, giải phóng hàng ngàn đồng bào. Du kích Xa Cát phục kích bọn cán bộ bình định ngụy, tiêu diệt 01 tên, thu 01 súng cabin.
Đêm 8 tháng 7 năm 1966, địch đã dùng phi pháo dọc đường đất đỏ từ Minh Thạnh lên Xa Cát, vì đoán được âm mưu địch sẽ đưa quân lên An Lộc bằng con đường này, đơn vị C.70 và du kích Minh Đức bố trí trận địa phục kích. Ngày 9 tháng 7 năm 1966, theo kế hoạch, địch đưa quân lên Bình Long, khi chúng vừa đặt chân vào đúng vị trí mai phục ở địa bàn xã Minh Đức, ngay lập tức đơn vị C 70 và du kích Minh Đức nổ súng tấn công. Địch không kịp đối phó, bị phá hủy 40 xe cơ giới, nhiều tên Mỹ- ngụy bị diệt. Thất bại nối tiếp thất bại, địch buộc phải kết thúc cuộc hành quân càn quét. Chúng phải dùng trực thăng để tăng cường quân số cho chiến trường An Lộc.
Trong lúc các lực lượng vũ trang hoạt động sôi nổi, trên mặt trận chống phá bình định, quần chúng cách mạng và đội ngũ cán bộ, đảng viên, du kích bám trụ cũng giành được nhiều thành tích. Địch dùng mọi biện pháp tàn bạo để gom xúc dân, các đội mũi công tác kiên trì ngày bám lô cao su, đêm đột nhập vào “ấp đời mới”, tuyên truyền vận động, móc nối xây dựng cơ sở. Các trận tiến công của lực lượng vũ trang cách mạng trong chiến dịch Bình Long buộc địch phải phân tán đối phó trong lúc tinh thần hết sức dao động. Lợi dụng tình hình này, ở Minh Đức, được sự hỗ trợ của các đội, mũi công tác và lực lượng vũ trang C.70, Ban cán sự đảng đã lãnh đạo nhân dân Làng 4, Làng 7, Làng 8, Xa Cát nổi dậy đấu tranh diệt ác trừ gian.
Trước hành động tăng quân, đẩy mạnh chiến tranh của Mỹ, ngày 17 tháng 7 năm 1966, Hồ Chủ tịch kêu gọi đồng bào chiến sĩ cả nước “quyết chiến quyết thắng giặc Mỹ xâm lược”. Lời kêu gọi khẳng định: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm,10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa, Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ. Không có gì quý hơn độc lập tự do, đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta to đẹp hơn, đàng hoàng hơn”. Xuất phát từ tình hình thực tế của địa phương, cuối tháng 10 năm 1966 Đảng bộ tỉnh Bình Long chủ trương mở hội nghị các cấp tiến hành đợt sinh hoạt chính trị về tình hình và nhiệm vụ trong thời gian sắp đến. Hội nghị xác định nhiệm vụ chủ yếu của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân Bình Long là “tiếp tục đẩy mạnh chiến tranh du kích, kết hợp lực lượng tỉnh, huyện và chủ lực, phản kích và ngăn chặn các cuộc hành quân của địch; đồng thời tiếp tục móc nối, xây dựng cơ sở, phá cho được kế hoạch bình định của địch, mở rộng vùng giải phóng”. Cũng tại Hội nghị này, tỉnh phát động phong trào thi đua đạt danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ và Dũng sĩ diệt xe cơ giới trong toàn lực lượng vũ trang tỉnh.
Thực hiện chỉ đạo của Tỉnh ủy, các tổ chức đảng ở Bình Long cũng được củng cố, Ban cán sự HT A310 được đổi tên thành Ban cán sự đảng đồn điền Xa Cát do đồng chí Tư Đạt làm bí thư, đồng chí Hai Phan làm phó bí thư, địa bàn chỉ đạo bao gồm cả khu vực xã Minh Đức, Thanh Bình. Thời gian này, các đội mũi công tác tiếp tục phát triển cơ sở, đặc biệt là trong vùng đồng bào dân tộc. Khoảng giữa năm 1966, Tỉnh ủy thành lập huyện ủy Hớn Quản, địa bàn chỉ đạo gồm các xã (Tân Khai, Minh Đức, Thanh Bình, Thanh Lương), đồng thời rút đồng chí Tư Đạt về làm bí thư huyện ủy, đổi tên Ban cán sự đảng đồn điền Xa Cát thành Đảng ủy đồn điền Xa Cát do đồng chí Hai Phan làm bí thư. Các đoàn công tác cũng được củng cố lại. Sở Nhất, Sở Nhì, Sở Ba do đồng chí Năm Thanh làm trưởng đoàn; Làng 4, Làng 6 do đồng chí Hai Lô làm trưởng đoàn; Làng 5, Làng 7, Làng Tám do đồng chí Hai Hưng, Tư Huệ phụ trách. Đồng chí Chín Lối được phân công phụ trách lực lượng vũ trang của xã từ năm 1965 đến năm 1967, thay cho Tư Tiến (vì cuối năm 1965, Tư Tiến đi phép về Bến Súc – Dầu Tiếng đã bỏ đơn vị) .
Để lừa mị nhân dân, địch xây dựng thêm trạm xá, trường học, chợ ngay trong các ấp chiến lược lúc này chúng đổi tên gọi là “ấp tân sinh”, đồng thời sử dụng bọn chiêu hồi thám báo để lung lạc hàng ngũ cách mạng và nội bộ nhân dân, kích động bọn lính người dân tộc thiểu số gây mâu thuẫn giữa đồng bào dân tộc và người Kinh... Mặc dù vậy, địch vẫn không sao giải quyết được mâu thuẫn cơ bản giữa đời sống nhân dân và chính sách gom dân lập ấp. Không thể tiếp tục sống trong trạng thái bị kìm kẹp cả về đời sống vật chất lẫn tinh thần, quần chúng nhân dân được cán bộ, đảng viên xã Minh Đức tuyên truyền giáo dục đã liên tiếp nổi dậy đấu tranh trực diện với kẻ thù. Ở các sóc đồng bào dân tộc, do hiểu rõ tâm tư tình cảm của đồng bào và nhất là nhờ thực hiện tốt chính sách của Đảng đối với đồng bào dân tộc, nên dần dần khắc phục được sự ngăn cách giữa người dân tộc thiểu số và người Kinh, các đảng viên vận động được nhiều thanh niên dân tộc đi theo cách mạng, không tham gia lực lượng phòng vệ dân sự của ngụy. Nhờ vậy, ta đã xây dựng được lực lượng khá mạnh ở hầu hết các sóc đồng bào dân tộc thiểu số.
Đầu năm 1967, địch vận chuyển hàng hóa quân sự, mở các cuộc hành quân biểu thị lực lượng, tạo thế, nghi binh và thực hiện cuộc hành quân Gianxơncity. Ngày 22 tháng 2 năm 1967, mở màn cho chiến dịch là những trận tập kích bằng phi pháo vô cùng ác liệt, ngay sau đó máy bay C-130 chở Lữ đoàn dù 173, nhảy xuống Cà Tum nằm trên tỉnh lộ số 4, nơi có ngã rẽ qua Bổ Túc, gần biên giới Campuchia (đây cũng là trận nhảy dù quy mô nhất trong chiến tranh Việt Nam). Tiếp theo là 250 lần chiếc trực thăng chở Lữ đoàn 1 và Lữ đoàn 2 Sư đoàn 1 “Anh Cả đỏ” đổ bộ xuống Sóc Mới, Rùm Đuôn, An Khắc nhằm khóa chặt biên giới Bắc Tây Ninh. Trong lúc đó, Lữ đoàn 2 sư đoàn 25 cùng với Trung đoàn tăng thiết giáp số 11 của Mỹ từ Tây Ninh, theo đường 4 tiến lên Đồng Pan, hợp với Lữ đoàn dù 173 tại Cà Tum, bức tường phía Đông đã hình thành. Với sự yểm trợ mạnh về phi pháo, xe tăng và bộ binh Mỹ cùng các lực lượng đặc biệt chia nhỏ từng vạt rừng mà chà xát, nhằm tiêu diệt hoặc “cất vó” bắt gọn đối phương.
Về phía ta, để đối phó với âm mưu mới của kẻ thù đưa phong trào cách mạng và kháng chiến tiếp tục tiến lên, Bộ tư lệnh Miền quyết định mở Chiến dịch Sông Bé - Phước Long (sau đổi tên thành Chiến dịch Đồng Xoài). Mục đích chiến dịch là tiêu diệt một bộ phận quan trọng chủ lực ngụy, đẩy mạnh chiến tranh du kích và hỗ trợ quần chúng phá “ấp chiến lược”, mở rộng vùng giải phóng, nối liền các căn cứ của miền Nam với nam Tây Nguyên, tạo điều kiện mở rộng đường vận tải chiến lược từ miền Bắc vào Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ.
Bình Long, Phước Long được Trung ương chọn để triển khai làm hướng chính là vì ở đây địch không mạnh, trong khi phong trào du kích chiến tranh của ta phát triển rất vững chắc. Hướng phối hợp gồm 5 tỉnh: Lâm Đồng, Bình Tuy, Long Khánh, Biên Hòa, Bà Rịa.
Từ ngày 18 tháng 3 đến ngày 15 tháng 4 năm 1967, địch mở tiếp hướng tấn công lên mạn Đông tỉnh lộ số 4, được giới hạn bởi sông Sài Gòn, trọng tâm của chiến dịch nhằm về tuyến biên giới phía Đông- Bắc Cà Tum và tuyến thượng nguồn sông Sài Gòn, được B52 rải thảm không hạn chế.
Tỉnh lộ 4 Tây Ninh đi Cà Tum, bây giờ là bức tường phía Tây của chiến dịch, các căn cứ Quản Lợi (Bình Long), Minh Thạnh (Núi Cát), Dầu Tiếng, Suối Đá (Tây Ninh); con đường số 13 huyết mạch kết hợp với các con đường 19, 22, 26 mới được sửa chữa, tạo thế tiến công từ phía Đông sang Tây. Lực lượng thiện chiến của các sư đoàn 1, sư đoàn 25, sư 4, 9... thì do máy bay trực thăng đổ bộ, hình thành các cụm căn cứ lớn khống chế biên giới Campuchia như Sóc Con Trăng, Đồng Rùm, Ba Vũng... Ở hướng Bình Long, chúng bố trí các căn cứ quân sự như trường Biệt kích, sân bay Minh Hòa, đưa 01 tiểu đoàn của Sư đoàn bộ binh 1 “Anh Cả đỏ” và 02 tiểu đoàn thuộc Lữ đoàn dù lên tập kết tại Quản Lợi nhằm thực hiện bình định và tìm diệt đánh bại cơ sở du kích, cơ sở chính trị và khống chế quần chúng, tiêu diệt lực lượng vũ trang của ta. Khu vực này, trên thực tế là địa bàn xung yếu nằm trong hệ thống huyết mạch chính của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, nơi đây vừa là đầu cầu tiếp nhận viện trợ từ miền Bắc, vừa là nơi cất dấu hậu cần, khí tài, quân bị. Nơi đây còn là bàn đạp, để từ đó Quân giải phóng tiếp cận các chiến trường Nam Tây Nguyên và Đông Nam bộ. Địa bàn xã Minh Đức nằm trên lộ đỏ Cần Lê đi Tây Ninh, do đó cũng bị Mỹ - Ngụy càn, đánh phá quyết liệt. Trong trận đầu chống càn tại suối Rù, lực lượng ta đã gây cho địch nhiều tổn thất, đổi lại phía ta có 4 đồng chí hi sinh, trong đó có đồng chí Ba Chánh là cán bộ quân báo tỉnh, 3 đồng chí của xã là Năm Bột, Năm Dăn và đồng chí Tâm.
Lực lượng đặc biệt Hoa Kỳ đã xây dựng tại phía Tây bắc xã Minh Đức một trại dân sự chiến đấu mang ám danh A-334, để phát hiện và ngăn chặn sự xâm nhập của quân ta từ bên kia biên giới. Khi mới thành lập, trại này chưa có tên nên thiếu tá ngụy Đặng Hưng Long, chỉ huy trưởng đầu tiên của trại phiên âm tiếng Miên Tonlé Tchombe thành tiếng Việt là Tống Lê Chân. Tống Lê Chân cũng là một tên rất lạ. Tonlé tiếng Miên có nghĩa là sông, hồ, suối hoặc nơi nào có nước. Thí dụ như Biển Hồ có tên Miên là Tonlé Sap. Sau này, phần đông các quân nhân trong binh chủng biệt động quân biên phòng ngụy gọi tắt là Tống “Lệ” để ám chỉ một căn cứ đầy máu và nước mắt, không có một ngày yên vui kể từ khi ra đời. Ngoài ra, trực tiếp tại xã còn có 3 trung đội làm nhiệm vụ lục soát, kìm kẹp, bố ráp lực lượng cách mạng, trong đó có một trung đội do tên Bảy Phước chỉ huy, địa bàn Làng 5, Làng 7, Làng 8, một trung đội do tên Út Xạc chỉ huy, địa bàn Sở Nhất, Sở Nhì, Sở Ba và một trung đội do tên Tôm chỉ huy, địa bàn đóng tại Làng 4.
Về vị trí, trại Tống Lê Chân nằm trong vùng ranh giới của hai tỉnh Tây Ninh và Bình Long, cách An Lộc chừng 15 km về hướng Tây Nam và mũi nhọn của chiếc Mỏ Vẹt chừng 13 km về hướng Đông Nam, cách trung tâm xã Minh Đức khoảng 10 km về hướng Tây Bắc. Dưới chân trại là con đường 246 nối liền Chiến khu C và Chiến khu D của Mật trận Dân tộc giải phóng Miền Nam. Căn cứ được thiết lập trên một ngọn đồi cao chừng 50 thước, trông xuống hai con suối Takon và Neron. Đây là những lạch nước khởi nguồn của sông Sài Gòn chảy qua Dầu Tiếng, Bến Súc, Phú Cường v.v.... Tống Lê Chân, là một trong chuỗi trại dân sự chiến đấu do lực lượng đặc biệt Mỹ thiết lập dọc theo biên giới Miên - Việt thuộc vùng 3 chiến thuật. Với vị trí chiến lược vô cùng quan trọng, nó có thể kiểm soát được các trục giao liên Nam- Bắc và Đông- Tây của vùng biên giới, lại trấn giữ sườn Tây cho thị xã An Lộc và xã Minh Đức, từ nơi đây chúng liên tục hành quân bung ra càn quét, lấn chiếm các vùng giải phóng của ta.
Lực lượng du kích xã Minh Đức đã kết hợp với lực lượng vũ trang của huyện, tỉnh chống càn liên tục, bắn cháy 5 xe tăng và giết toàn bộ lính trên xe. Cuộc hành quân của địch chỉ gặp phải toàn cạm bẫy như chông, mìn, lựu đạn gài. Du kích Minh Đức thì lúc ẩn lúc hiện không sao tiêu diệt được, những căn cứ mà binh sĩ Mỹ vào được thì trống rỗng, tịch thu được những thứ mà đối phương không kịp mang đi. Những khi dừng chân thì bị du kích, bộ đội huyện và sư đoàn 9 (trước đó đã luồn sâu vào vùng hậu cứ cuộc hành quân để tổ chức tấn công) bắn tỉa, bị ném lựu đạn, bị phóng rocket... Thương vong do bẫy chông, bẫy mìn, sự đánh trả của du kích và bệnh tật của rừng nhiệt đới làm cho lính Mỹ thiệt hại ngày càng tăng, trở nên lo sợ, không còn hăng hái lùng sục nữa. Khi những nắm đấm thép đã tung ra hết cỡ, kỳ vọng không đạt được của chiến dịch Jonction City, tinh thần quân Mỹ - ngụy buộc phải xuống dốc. Tối ngày 14 tháng 4 năm 1967, chúng phải rút chạy chỉ để lại một tiểu đoàn biệt kích chốt giữ cầu Cần Lê, một số tiếp tục cố thủ tại Tống Lê Chân.
Tháng 5, những cơn mưa đầu mùa ập đến, cảnh sắc cũng thay đổi theo chu kỳ. Không phải con người thấy dễ chịu, mà cả mặt đất, cả núi rừng, cỏ cây, sông suối ở Minh Đức như bừng tỉnh, trải rộng một màu xanh bạt ngàn. Những đàn nai thong dong gặm cỏ bên bờ sông, bờ suối.Nhưng đối với hoạt động quân sự thì mưa lại là những trở ngại.Mưa làm sập hầm hào, gây khó khăn cho di chuyển, tiếp tế, mưa gây ẩm ướt, phát sinh bệnh tật, sức khỏe giảm sút và biết bao nhiêu khó khăn khác nảy sinh.Đặc biệt đối với Mỹ - ngụy, bộ binh vốn chỉ mạnh về mùa khô. Do đó, lợi dụng điểm yếu này của địch, các cán bộ, đảng viên, du kích xã Minh Đức đã kết hợp với F16 Sư đoàn 7 phục kích đánh 3 ngày liên tục ở Làng 8, diệt 80 xe. Khoảng tháng 3 năm 1967, du kích xã kết hợp với trinh sát của tỉnh tập kích bằng DH 10 và B40 vào quân Mỹ – ngụy lúc này đang đóng tại phía tây xã Minh Đức, bắn cháy 2 xe tăng M 113. Đến tháng 7/1967, du kích xã phối hợp cùng lực lượng H7 của Sư đoàn 7 tập kích buộc chúng phải tháo chạy về đóng quân ở ngã tư Minh Thạnh – Vườn Khế để án ngữ phía nam Bình Long, từ trận đánh thắng lợi này nên có tên là Đồi H7. Khoảng đầu tháng 10 năm 1967, lực lượng du kích xã kết hợp Trung đoàn 15, Sư đoàn 7 pháo kích và tập kích phá hủy nhiều xe tăng, tiêu diệt nhiều lính Mỹ, buộc chúng phải tháo chạy khỏi chốt ngã tư Minh Thạnh.
Vào một ngày khoảng trung tuần tháng 10 năm 1967, bọn địch gồm 01 đại đội biệt kích của Tống Lê Chân bung ra và tập kích căn cứ Chum Thum là căn cứ của trạm xá và kinh tài huyện. Lực lượng vũ trang C 70, du kích xã chống trả quyết liệt từ sáng sớm đến 12 giờ trưa, tiêu diệt gần hết đại đội của địch và bắn rớt 01 trực thăng, trong đó có 2 phi công Mỹ.
Cuối năm 1967, cục diện chiến trường tiếp tục chuyển biến có lợi cho cách mạng miền Nam.Chiến tranh nhân dân phát triển đều khắp trên cả ba vùng chiến lược. Thế và lực của cách mạng được tăng cường, niềm tin vào thắng lợi của nhân dân được củng cố, tạo nên sự đoàn kết, thống nhất, quyết tâm kháng chiến chống Mỹ trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Tháng 11 năm 1967, huyện ủy tổ chức quán triệt học tập nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 12.Lúc này xã Minh Đức và các xã Tân Khai, Thanh Bình trực thuộc K3.Phụ trách K3 có các đồng chí Hai Ký, Ba Bình, Tư Đạt và Bảy Kính. Cấp ủy xã lúc này có các đồng chí Hai Phan, Chín Lối, …
Tháng 12 năm 1967, Bộ Chính trị họp, ra nghị quyết về tổng công kích và tổng khởi nghĩa. Tháng 1 năm 1968, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 14 (khóa III) quyết định “chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam sang một thời kỳ mới”. Để thực hiện quyết tâm chiến lược đó, nhiệm vụ trọng đại và cấp bách lúc này là “động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn dân ở cả hai miền, đưa chiến tranh cách mạng của ta tiến lên bước phát triển cao nhất.Bằng phương pháp tổng công kích tổng khởi nghĩa, để giành thắng lợi quyết định”. Mục tiêu chiến lược của tổng công kích, tổng khởi nghĩa là nhằm tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận ngụy quân, đánh đổ ngụy quyền các cấp, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân; tiêu diệt một phần quan trọng sinh lực địch và phương tiện chiến tranh của Mỹ, làm cho Mỹ không thực hiện được các nhiệm vụ chính trị và quân sự của chúng ở miền Nam.
Để chuẩn bị cho cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa, đồng chí Cao Văn Chi (Năm Chi) được phân công phụ trách K3, đã trực tiếp xuống nắm tình hình và quán triệt nhiệm vụ cho cán bộ, đảng viên xã Minh Đức. Nhận thức được nhiệm vụ cho trận đánh quyết định này, các cán bộ, đảng viên trong xã đã tích cực thâm nhập quần chúng, tuyên truyền nâng cao nhận thức về quyết tâm chiến lược của trên, lãnh đạo nhân dân tích cực chuẩn bị mọi phương tiện, đẩy mạnh sản xuất, tích trữ lương thực, thực phẩm, sẵn sàng tiếp tế cho bộ đội, du kích, đồng thời phát động nhân dân khi thời cơ đến sẵn sàng tiến lên giành lấy chính quyền.
Thực hiện chủ trương của Đảng, đúng 0 giờ ngày 30 tháng 1 năm 1968 (Tết Mậu Thân), toàn miền Nam mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, đồng loạt tiến công đánh vào hầu hết cơ quan đầu não Trung ương, địa phương của Mỹ lẫn Ngụy. Bị bất ngờ, Mỹ – ngụy choáng váng đến tận Lầu Năm Góc, hàng ngũ chúng trở lên rối loạn. Nhiều đô thị bị đánh chiếm, nhiều tuyến giao thông chiến lược bị cắt đứt, mọi hoạt động vận chuyển, liên lạc của địch bị tê liệt.
Tại Bình Long, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Tỉnh ủy, bộ đội địa phương tập trung tấn công vào thị xã An Lộc, đồn Quản Lợi, chi khu Chơn Thành. Dinh tỉnh trưởng Bình Long, nhà cố vấn Tân Tây Lan, cứ điểm Técních, tòa hành chính, trại giam, ty cảnh sát đều bị tấn công mãnh liệt. Phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân vẫn tiếp tục diễn ra mạnh mẽ. Cùng với nhân dân các làng Xa Cát, Xa Cam, Xa Trạch, Sóc Trào, nhân dân Minh Đức, được sự hỗ trợ của các lực lượng trên, quân và dân xã đã nổi dậy giải phóng trung tâm xã (Làng 4), làm chủ nhiều ngày đêm. Sau khi quân ta kết thúc tấn công địch đợt 2 thì địch củng cố lại, trên địa bàn xã chúng phản kích liên tục ra vùng giải phóng của xã như Làng 4, Làng 5, Làng 7 và Làng 8. Lực lượng du kích của xã kết hợp với lực lượng vũ trang chống càn liên tục, đánh tiêu hao nhiều sinh lực của địch. Có trận diễn ra vào đầu tháng 10 năm 1968, tại Làng 4, lực lượng ta tập kích phá hủy 3 xe tăng và tiêu diệt một số tên địch. Khoảng giữa tháng 10 năm 1968, lực lượng vũ trang xã có 10 đồng chí đánh nhau với một đại đội gồm lính Mỹ và lính ngụy tiêu diệt hơn 30 tên. Ở Làng 5, Làng 6, du kích xã phối hợp với một đại đội chủ lực của Sư đoàn 9 đánh một tiểu đoàn quân Mỹ tiêu diệt gần trăm tên. Tại Làng 5, lực lượng du kích xã phối kết hợp với lực lượng trinh sát của tỉnh và C.70 đánh một đại đội Mỹ diệt và làm bị thương hàng chục tên. Sau khi nổi dậy đập tan bộ máy kìm kẹp của địch, bao vây đồn bót Chà Là, Đức Vĩnh 1, uy hiếp trại Tống Lê Chân, nhân dân kéo vào thị xã An Lộc đấu tranh với địch, đòi bồi thường thiệt hại, đòi hủy bỏ lệnh thiết quân luật, đòi cung cấp lương thực cho bà con di tản vì chiến tranh, đòi chôn cất người chết v.v… làm cho bộ binh Mỹ và Ngụy không dám bung ra càn quét, chúng liên tục bắn pháo từ An Lộc vào vùng giải phóng và vùng căn cứ của ta. Cũng trong thời gian này, nhiệm vụ của xã vừa đánh địch, vừa mở rộng vùng giải phóng. Vừa đánh địch càn quét, chi bộ còn lãnh đạo nhân dân trong xã đi dân công phục vụ chiến dịch. Quyên góp gạo thóc giúp bộ đội, động viên con em nhập ngũ, tham gia các lực lượng vũ trang. Kết quả, có hàng trăm người tham gia dân công phục vụ chiến dịch. Có hàng chục thanh niên thoát ly nhập ngũ vào Tiểu đoàn 368. Đảng ủy đồn điền Xa Cát và các chi bộ còn động viên nhân dân tích cực tham gia lao động sản xuất để có lương thực sinh sống và phục vụ cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước lâu dài.
Tháng 10 năm 1968, sau khi kết thúc ba đợt tấn công, Huyện ủy Hớn Quản tổ chức sắp xếp lại, thành lập đảng ủy xã Minh Đức do đồng chí Hai Phan làm bí thư, đồng chí Phan Văn Lối (Chín Lối) làm phó bí thư, đồng chí Sáu Trừ làm xã đội trưởng, đồng thời chia làm 4 mũi công tác. Mũi Tân Khai do đồng chí Tư Biên làm mũi trưởng, mũi Sở Nhất, Sở Nhì và Sở Ba do đồng chí Năm Thanh làm mũi trưởng, mũi Sở Tư và Làng 6 do đồng chí Trần Văn Bự (Tư Bự) làm mũi trưởng, mũi Làng 5, Làng 7, Làng 8 do đồng chí Phan Văn Lối (Chín Lối) làm mũi trưởng. Huyện ủy giải thể K3, cử đồng chí Tư Đạt phụ trách các xã Minh Đức, Thanh Bình, Thanh Lương (7).
Liên tiếp trong 03 đợt tổng công kích, tổng khởi nghĩa trong năm 1968 (đợt một từ đêm 30 rạng ngày 31 tháng 01 đến ngày 25 tháng 02 năm 1968, đợt hai từ lúc 0 giờ 30 ngày 05 tháng 05 đến 12 tháng 5 năm 1968 và đợt ba từ ngày 17 tháng 8 đến ngày 30 tháng năm 1968), quân ta đã giành nhiều thắng lợi to lớn. Nhưng tổng tiến công chưa chấm dứt được chiến tranh. Tuy thắng lớn nhưng lực lượng ta cũng bị tổn thất nhiều và chưa được bổ sung kịp thời. Lợi dụng tình hình này, địch tiến hành “bình định cấp tốc”, tiếp tục càn quét, tranh giành quyết liệt những vùng chúng vừa bị mất.
Tháng 07 năm 1968, địch lập ra Ủy ban Phượng Hoàng từ Trung ương đến các xã nhằm đánh phá cơ sở cách mạng của nhân dân bằng các hoạt động ám sát, bắt cóc. Ủy ban này được bọn Mỹ mệnh danh là “Con chim thần chết” có quyền điều động mọi lực lượng quân sự, bán quân sự của ngụy tại tỉnh xuống cơ sở cho công tác bình định. Nhân viên hoạt động trong tổ chức này phần lớn được tuyển dụng trong bọn ác ôn, nhận lương và chịu sự chỉ đạo trực tiếp của CIA (cơ quan trung ương cục tình báo Mỹ). Ngụy quyền thành lập trung tâm bình định do Nguyễn Văn Thiệu trực tiếp điều hành.
Tháng 11 năm 1968, địch mở “chiến dịch Phượng Hoàng”,với thủ đoạn đánh phá cơ sở cách mạng của Nhân dân ta bằng các hoạt động bám sát, bắt cóc, chiến tranh tâm lý, địch giành lại hầu hết những khu vực đã mất trong các đợt tiến công và nổi dậy, khôi phục các tuyến giao thông quan trọng. Ở Bình Long địch đưa lực lượng Anh cả đỏ, Trung đoàn thiết giáp 11 cùng với Sư đoàn 5 ngụy thực hiện chương trình bình định cấp tốc, trọng điểm là Đường 13 và vùng ven An Lộc. Sư đoàn kỵ binh bay Mỹ dùng B52 ném bom và rải chất độc, tập trung đánh phá vùng giải phóng ven thị xã An Lộc hủy diệt địa hình căn cứ, vùng tranh chấp. Trên đường 13, đường đất đỏ Xa Cát - Minh Thạnh và các vị trí xung yếu địch dùng xe cơ giới ủi sạch cây cối để triệt hạ chỗ ẩn núp của lực lượng cách mạng; xây dựng những chốt đóng quân dã ngoại của Mỹ, hình thành một hệ thống, phòng ngự nhiều tầng, nhiều lớp.
Trước sức mạnh của quân địch, quân và dân ta tạm rút lui để bảo toàn lực lượng. Từ đây địch kiểm soát gắt gao sự đi lại làm ăn của nhân dân, cấm nhân dân vào rừng để cắt đứt liên lạc với cách mạng. Ban đêm, chúng tổ chức tuần tra gắt gao, vây ráp bắt bớ, tạo ra không khí căng thẳng trong vùng chúng kiểm soát.
Trong suốt giai đoạn 1965 - 1968, cán bộ, đảng viên, quân và dân trong xã đã chịu đựng nhiều hi sinh gian khổ nhưng vẫn chiến đấu kiên cường, phối hợp chặt chẽ với các lực lượng vũ trang liên tiếp tấn công kẻ thù, đỉnh cao là cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa tết Mậu Thân 1968, phá tan các ấp chiến lược, tập kích đánh thiệt hại các đồn bốt và đập tan bộ máy cai trị trên địa bàn, giáng cho kẻ thù những đòn tổn thất nặng nề cả về lực lượng, tinh thần và vật chất, giải phóng được các làng, các sóc góp phần mở rộng vùng căn cứ kháng chiến của cách mạng. Mặc dù chưa kết thúc được chiến tranh nhưng quân và dân trong xã đã cùng quân dân cả nước có một mốc son oanh liệt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đánh dấu sự thất bại cay đắng của chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, đồng thời gây một tác động chính trị rất lớn buộc Mỹ phải ngồi vào bàn đàm phán với ta tại Pari. Về tổ chức đảng và lực lượng vũ trang xã cũng từng bước trưởng thành, đủ sức lãnh đạo quần chúng Nhân dân bước vào chặng đường mới đầy căm go, quyết liệt.
Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân Mậu Thân năm 1968 tuy chưa đạt được các mục tiêu chiến lược đề ra ban đầu, nhưng đã gây một tác động chính trị rất lớn, làm phá sản chiến lược “Chiến tranh cục bộ “, buộc Mỹ phải ngồi vào bàn đàm phán với ta tại Pari và chính thức đề ra học thuyết Nichxơn, vận dụng vào cuộc chiến tranh xâm lược ở miền Nam Việt Nam, được gọi là “Việt Nam hóa chiến tranh”, từng bước chuyển giao nhiệm vụ tác chiến trên chiến trường cho quân ngụy, tiếp tục chiến tranh “dùng người Việt đánh người Việt” với công thức: ngụy quân + cố vấn Mỹ + viện trợ Mỹ + phương tiện chiến tranh của Mỹ.
Ở Minh Đức quần chúng đã được động viên đến mức cao nhất. Nhân dân và du kích Minh Đức đã làm công tác dẫn đường, bảo vệ cán bộ cách mạng, phối hợp nhịp nhàng với lực lượng vũ trang đấu tranh với địch trên mặt trận chính trị và công tác binh vận, để các lực lượng này tập kích đánh thiệt hại các đồn bốt và bộ máy cai trị trên địa bàn, giáng cho chúng những đòn tổn thất nặng nề cả về lực lượng, tinh thần và vật chất.