Cao trào Đồng Khởi 1960, quân và dân ta đã giành thắng lợi to lớn, đẩy địch vào thế bị động, lúng túng. Chiến lược “Chiến tranh đơn phương” của tập đoàn Aixenhao – Ngô Đình Diệm đã sụp đổ toàn diện. Trước tình hình đó, để cứu vãn tình thế, ngày 28 tháng 1 năm 1961, đế quốc Mỹ thông qua chiến lược mới và chọn miền Nam làm nơi thử nghiệm chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”. Mục đích của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” là chống lại chiến tranh du kích, chống lại phong trào cách mạng của nhân dân miền Nam đang lên cao, không có chiến tuyến cố định. Hình thức của nó là phối hợp đầy đủ các hành động quân sự, chính trị, kinh tế và tâm lý. Công cụ để tiến hành chiến tranh là bè lũ tay sai Ngô Đình Diệm, với thủ đoạn hết sức thâm độc là “dùng người Việt đánh người Việt”. Lực lượng quân sự chủ yếu là quân đội tay sai với vũ khí, phương tiện chiến tranh, tiền của của Mỹ và do cố vấn Mỹ chỉ huy. Để đạt được mục tiêu trên, trong những năm 1961 - 1962, Mỹ - Ngụy mở kế hoạch Stalây - Taylor bình định, gom dân lập ấp chiến lược, tổ chức các cuộc hành quân càn quét đàn áp phong trào cách mạng tại miền Nam mà chúng gọi là tát nước bắt cá.
Phong trào Đồng khởi và chiến tranh du kích trên toàn miền Nam phát triển ngày càng mạnh mẽ, đưa chế độ tay sai ở miền Nam đứng trước nguy cơ sụp đổ. Ngày 28 tháng 01 năm 1961, đế quốc Mỹ thông qua chiến lược mới và chọn miền Nam làm nơi thử nghiệm chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”,thí nghiệm vũ khí mới, phương pháp chiến tranh mới. Mục đích của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” là chống lại chiến tranh du kích, chống lại phong trào cách mạng của Nhân dân miền Nam đang lên cao, không có chiến tuyến cố định. Hình thức của nó là phối hợp đầy đủ các hành động quân sự, chính trị, kinh tế và tâm lý. Công cụ để tiến hành chiến tranh là bè lũ tay sai Ngô Đình Diệm, với thủ đoạn hết sức thâm độc là “dùng người Việt đánh người Việt”. Lực lượng quân sự chủ yếu là quân đội tay sai với vũ khí, phương tiện chiến tranh, tiền của Mỹ và do cố vấn Mỹ chỉ huy.
Thực hiện chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, tháng 11 năm 1961, kế hoạch Sta - lây - Tây - lơ (Satley - Taylor) được tổng thống và Hội đồng an ninh Mỹ chính thức thông qua. Để thực hiện kế hoạch trên, chúng sử dụng nhiều biện pháp chiến lược, nhiều âm mưu thâm độc mà trong đó chương trình “bình định” và “lập ấp chiến lược” được nâng lên thành “quốc sách” nhằm “bình định” miền Nam trong vòng 18 tháng. Tại Hớn Quản, chúng bố trí một lực lượng quân sự khá mạnh gồm 3C bảo an cơ động (thám sát C.212, C.399 và C.781 thuộc Liên đoàn bảo an 319 do tên đại úy Mưa chỉ huy), 16 B dân vệ chia về mỗi quận từ 1 đến 3B, 1E chủ lực đóng tại Téc-ních (Quản Lợi), cùng với một mạng lưới tề điệp, cảnh sát, bình định dày đặc, sau đó lại đưa thêm Trung đoàn 7 - Sư đoàn 5 bộ binh về lập căn cứ ở Quản Lợi, để bảo đảm tăng cường lực lượng cho các cuộc càn quét, xây dựng đồn bốt, gom dân về các điểm tập trung lập ấp chiến lược ở các xã lân cận. Các lực lượng quân ngụy đều do tên tỉnh trưởng Bình Long - thiếu tá Mẫn chỉ huy. Đối với các xã, ngoài hội đồng xã, ban tề, chúng bố trí thêm các lực lượng bảo an, dân vệ.
Tại xã Minh Đức, giữa năm 1961, địch xây dựng 6 ấp chiến lược gồm ấp Đức Vĩnh 1, ấp Đức Vĩnh 2, ấp Đức Vĩnh 3, ấp Đức Thành (Làng 5), ấp Đức Mào (Làng 7 và Làng 8), dồn dân Làng 7 vào Làng 8, sóc Vàng, sóc 6 vào sóc Bình Ninh, đặt thêm sở chỉ huy tại Xa Cát. Ấp chiến lược lập đến đâu chúng giăng đồn bót, bảo an, dân vệ kìm kẹp đến đó.Ớ mỗi ấp có 2 cổng ra vào.Sáng 5 giờ mở cổng cho công nhân đi cạo mủ, chiều 5 giờ đóng cổng. Quản lý ấp là một Ban trị sự, phòng thủ bảo vệ ấp là lực lượng Phòng vệ dân sự khoảng 01 trung đội phối hợp với các đơn vị Thanh niên, Thanh nữ Cộng hòa của ấp thường xuyên canh gác và lục xét công nhân đi làm cũng như đi về.
Để đẩy nhanh tiến độ xây dựng ấp chiến lược, tháng 3 năm 1962 địch mở cuộc hành quân càn quét mang tên “Mặt trời mọc” để càn quét, gom dân, lập ấp chiến lược. Chúng xây dựng sở chỉ huy tại Xa Cát.Hàng ngày địch đưa tới Minh Đức một tiểu đội dân vệ vừa làm nhiệm vụ bảo vệ giúp bọn tề xã thực hiện kế hoạch gom dân và xây dựng ấp chiến lược.Các ấp chiến lược ở Minh Đức thực sự trở thành trại tập trung kiên cố, có hào sâu, lưới kẽm gai, hàng rào chông, bãi mìn và hệ thống tháp canh kiểm soát ngặt nghèo.Mọi trường hợp xâm nhập lén lút, bất hợp pháp từ bên ngoài vào đều có thể bị phát hiện vì trong ấp có hệ thống báo động.Địch còn cho điện vào hàng rào thép gai nếu đụng vào sẽ bị giật chết. Trong ấp chiến lược, chúng ra sức tuyên truyền nói xấu cách mạng và giải thích việc gom dân lập ấp như là vì lợi ích của đồng bào, để bảo vệ đồng bào không bị “Việt cộng” quấy nhiễu... Đối với thanh niên, chúng bắt tập quân sự, bắt canh gác, buộc gia nhập vào lực lượng “phòng vệ dân sự”, “thanh niên cộng hòa”. Đời sống, sinh hoạt hàng ngày của nhân dân đều bị chúng kiểm soát gắt gao, bị tước đoạt mọi quyền lợi tự do dân chủ, bị tình nghi, bị phân loại đối xử, cuộc sống nghẹt thở như trong các trại tập trung. Trong khi thi hành xây dựng ấp chiến lược, nhiều viên chức tề, ngụy tham ô tiền ngân sách chi cho việc xây dựng Ấp chiến lược để ăn chơi trác táng, sau đó bắt dân phải gánh chịu khoản này, như phải nộp tiền, công sức và cọc tre, cọc gỗ để làm hàng rào cho ấp.
Đến cuối năm 1962, trên địa bàn huyện Bình Long, chúng đã xây dựng được 75 ấp chiến lược, bao gồm các ấp ở nội ô, thị xã, thị trấn, các ấp nằm trong vùng nông thôn, vùng đồn điền cao su, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Cuộc sống của nhân dân Bình Long nói chúng, xã Minh Đức nói riêng không những bị xáo trộn một phần nếp sống cổ truyền nông thôn, họ còn bị bóc lột nên hết sức căm phẫn, tìm mọi cách phản đối, đây cũng là điều kiện thuận lợi để cán bộ, đảng viên phát động phong trào “phá ấp chiến lược” trong nhân dân.
Bên cạnh những thủ đoạn nham hiểm nhằm tách nhân dân xa rời cách mạng, địch đã buộc mỗi gia đình trong ấp phải sắm một cây đèn bão và cái mõ. Cứ mỗi buổi tối phải thắp đèn lên và treo trước cửa nhà, ngay cửa ngõ phải có khẩu hiệu vẽ bằng sơn do chúng đặt ra như “Đồng tâm diệt cộng”, “Diệt cộng là yêu nước”, Mục đích chúng bắt dân làm là nhằm phát hiện những hoạt động của cơ sở và các hoạt động của đội công tác bên ngoài thâm nhập vào trong ấp và khi có Việt cộng thâm nhập vào thì gõ mõ báo cho chúng biết. Nhưng dưới sự lãnh đạo của chi bộ Tân Khai, nhân dân đã tìm mọi biện pháp để đánh lừa lại chúng, như quần chúng nhận truyền đơn ở ngoài căn cứ về, sau đó giao cho một số đoàn viên, thanh niên nòng cốt đóng giả làm bộ đội, đội mũ tai bèo, quấn khăn rằn đi rải truyền đơn quanh bót, khi trở về nhà thì đồng loạt đập vỡ đèn treo trước cửa rồi đánh mõ kêu la “Việt cộng rải truyền đơn và đập vỡ đèn !”. Khi chúng đến thì chẳng thấy bộ đội đâu, chỉ thấy quanh bốt đầy truyền đơn làm chúng hoang mang.Những việc làm này đã dần dần phá được kế hoạch ly tán giữa cách mạng và quần chúng của địch.
Nắm vững quy luật vận động cách mạng là cách mạng giải phóng dân tộc chỉ có thể giành được thắng lợi bằng con đường đấu tranh bạo lực cách mạng kết hợp đấu tranh chính trị của nhân dân.Tháng 10 năm 1961, để tiện cho việc chỉ đạo phong trào cách mạng trên địa bàn miền Đông Nam bộ trong tình hình mới, Trung ương Cục quyết định thành lập tỉnh Bình Long trên cơ sở huyện Hớn Quản trước đây. Ban Cán sự tỉnh cũng nhập vùng đồn điền và vùng nông thôn để thành lập ba quận, mỗi quận cũng mang mật số C để giữ bí mật về tổ chức. Quận Hớn Quản mang mật số C.55 (bao gồm cả thị xã An Lộc) do đồng chí Lê Văn Hai phụ trách, Quận Chơn Thành mang mật số C45. Lực lượng vũ trang của C55 lúc này có đại đội 70 do đồng chí Hai Luận làm chỉ huy trưởng.
Sau khi củng cố, C45, C55 hình thành các đoàn công tác hỗ trợ các xã. Ở Minh Đức có hai đoàn công tác, một đoàn gồm các đồng chí Phan Văn Lối (Chín Lối), Út Quẹo … trực thuộc C45, phụ trách địa bàn bao gồm Đức Vĩnh 1, Đức Vĩnh 2, Đức Vĩnh 3, Sở Tư, Làng 5 và Làng 7, một đoàn gồm các đồng chí Bảy Thành, Ba Xây, Điểu Ninh trực thuộc C55 phụ trách Làng 6, Làng 8 và Bình Phú. Nhiệm vụ chủ yếu của các đội mũi công tác là vừa vũ trang vừa tuyên truyền vận động nhân dân ủng hộ cách mạng. Do đồng bào dân tộc hiểu về cách mạng còn ít, nên ngoài nhiệm vụ tập trung đánh bọn dân vệ, tiêu diệt địch, cán bộ, đảng viên còn phải nắm được dân, bám vào dân, xây dựng cơ sở cốt cán trong dân để tạo được phong trào quần chúng, từ đó làm mất chỗ dựa của địch.
Được đoàn công tác của huyện tăng cường, chi bộ tập trung củng cố lực lượng, phát triển thêm du kích thành một trung đội với 27 đồng chí, các cơ sở mật cũng được xây dựng ở hầu hết các ấp chiến lược và các sóc đồng bào dân tộc. Ở Làng 6 và Làng 8, sau thời gian nắm tình hình, tích cực vận động, đồng chí Bảy Thành đã giác ngộ một số thanh niên đi theo cách mạng, đồng thời là cơ sở của ta tại Làng 6 và Làng 8 như các đồng chí Đoàn Văn Bê, Hai Hưng, Tư Tân, Tư Ẩn, Ba Lan… Đồng bào dân tộc sóc 6 rất có cảm tình với cách mạng, thường xuyên nuôi giấu cán bộ, nắm tình hình địch phục vụ cho đoàn công tác, trong đó có các anh Điểu Giáo, Điểu Sa Róc thấy lính ngụy là tìm mọi cách báo ngay với đoàn công tác để kịp thời rút ra ngoài rừng an toàn.
Thực hiện chủ trương của Quận ủy C.45 là “phát động quần chúng nổi dậy chống phá âm mưu bình định gom dân lập ấp chiến lược của địch bằng cả 3 mũi quân sự, chính trị và binh vận, diệt ác phá thế kìm kẹp của địch, giải phóng dân”, Chi bộ phối hợp chặt chẽ với các đoàn công tác của huyện, lãnh đạo tăng cường đấu tranh vũ trang nhằm trực tiếp tiêu hao sinh lực địch và trực tiếp hỗ trợ đắc lực cho phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân, vừa tạo tiền đề và cơ sở cho công tác binh vận.
Tháng 5 năm 1962, cơ sở bên trong bí mật phối hợp với lực lượng bên ngoài đột nhập vào ấp Đức Thành bắt và diệt 2 tên ác ôn tại chỗ gồm 1 mật báo và 01 chỉ điểm. Lực lượng vũ trang C.70 của huyện do đồng chí Hai Luận, Sáu Bàng chỉ huy cùng với nhân dân khu vực đường 13 đoạn Xa Cát, Tân Khai nổi dậy phá hết hàng rào ấp chiến lược, tên dân biểu Sáu Hiếu, đại biểu quốc hội đầu tiên của chính quyền Ngô Đình Diệm bị bắn cảnh cáo. Ở Làng 6 và Làng 8, dưới sự chỉ đạo của các đồng chí Bảy Thành và Ba Xây phong trào đấu tranh của nhân dân rất mạnh với nhiều hoạt động rải truyền đơn, đốt khí đá gây tiếng nổ, phá hàng rào ấp chiến lược. Những đòn tấn công mạnh mẽ của lực lượng vũ trang cách mạng làm bọn địch hết sức hốt hoảng, chúng phải co cụm lại ở vùng trung tâm thị xã, thị trấn.Công nhân và nhân dân kéo vào thị xã An Lộc đấu tranh trực diện với tỉnh trưởng Bình Long chống gom dân lập ấp chiến lược.Cuộc đấu tranh này tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ của các tầng lớp nhân dân trong thị xã, của đồng bào dân tộc.Trước sức mạnh của quần chúng, tên Tỉnh trưởng phải ra nhận kiến nghị và hứa giải quyết yêu cầu của đồng bào.Các ấp chiến lược khu vực Làng 5, Làng 7, Xa Cát cơ bản bị phá rã. Ban đêm địch co cụm trong các đồn, bót, lực lượng của ta làm chủ vùng nông thôn, ban ngày lực lượng ta lại rút ra ngoài rừng mang theo lương thực, thuốc men từ nhân dân cung cấp. Lúc này đồn điền Xa Cát, Xa Cam, đã phát triển được nhiều đảng viên nên Tỉnh ủy Bình Long quyết định thành lập Ban cán sự đảng mật hiệu là HT A310, do đồng chí Nguyễn Văn Lên (Tám Lên) làm bí thư, Ban cán sự trực tiếp chỉ đạo các chi bộ trong toàn xã.
Căn cứ vào tình hình thực tế và thực hiện nghị quyết của Trung ương Cục (R) tháng 5 năm 1962 về công tác quân sự, trong đó có nội dung chỉ đạo cơ bản là: “Ra sức đẩy mạnh phong trào du kích và xã chiến đấu, phát triển lực lượng vũ trang làm cho địch đi tới đâu cũng bị quấy rối, tiêu hao, ngăn chặn. Tích cực và khẩn trương phát triển lực lượng ba thứ quân, nhất là lực lượng du kích, vì đó là lực lượng chiến lược có ý nghĩa quyết định trong việc giữ vững và đẩy mạnh nhiệm vụ phá kế hoạch gom dân lập ấp chiến lược và càn quét lấn chiếm của địch”, tiểu đội du kích Minh Đức lúc này đã được tăng cường thêm lực lượng, xây dựng căn cứ ngoài ấp chiến lược làm nơi đứng chân, được trang bị súng ga răng, súng cạcbin. Nhiệm vụ của đội du kích lúc này là bảo vệ cán bộ làm công tác phong trào và tiêu diệt địch.
Đêm 13 rạng sáng 14 tháng 6 năm 1962, địch nắm được lực lượng ta đang ở Làng 6 nên chúng cho một đại đội biệt động đột nhập vào làng. Do bị bao vây và tấn công bất ngờ, nên các đồng chí Tám Bê và Điểu Ninh hi sinh, đồng chí Hai Hưng bị thương. Chúng bắt hết thanh niên trong làng, khoảng 40 người đưa về Chi khu An Lộc tra tấn, sau đó chúng bắt giữ lại 10 người giam tù do tình nghi, trong đó có đồng chí Tư Bự, Tư Ẩn, còn lại chúng trả về, nhưng lại gom hết dân Làng 6 vào Làng 4 để quản lý. Riêng đồng chí Bảy Đèo do bị địch đánh rất dã man nên ngay sau khi ra tù đã chết.
Giữa năm 1962, làng 6 và làng 8 do đồng chí Bảy Thành phụ trách, vận động và rút ra một số đồng chí để bổ sung cho đoàn công tác, lực lượng của trên và đội du kích xã, gồm có các đồng chí Ba Xây, Trần Văn Mý ở làng 8, các đồng chí Ba Lan, Tư Tân, Sáu Hy, Hai Hưng làng 6, Chín Lối, Hai Phan, Ba Nghĩa, Ba Cảnh ở Sở Nhất; Hai Phương, Mười Dấu, Tám Tranh ở Làng 7; Hai Lô, Hai Suốt, Ba Dũng ở Làng 4. Ở Làng 6, để củng cố cơ sở sau khi bị địch khủng bố, huyện ủy phân công các đồng chí Năm Sao và Tư Phú về tuyên truyền, ổn định tình hình tư tưởng của cán bộ và nhân dân, sau đó phân công đồng chí Hai Hưng phụ trách Làng 6. Cuối năm 1962, được sự hỗ trợ của C.70, đồng chí Chín Lối chỉ huy đội du kích xã tấn công đồn dân vệ Minh Đức tiêu diệt 02 tên, về phía du kích, các đồng chí Mười Đấu và Phạm Văn Trường bị bắt, sau đó chúng đưa lên sân bóng (Trường trung học cơ sở xã Minh Đức ngày nay) và bắn chết đồng chí Trường. Ngoài ra có đồng chí Hai Lô cũng bị địch bắt và giam tại nhà lao Chí Hòa đến ngày 1 tháng 11 năm 1963, nhân cuộc đảo chính lật đổ và giết chết anh em Ngô Đình Diệm đồng chí Hai Lô đã vượt ngục trở về Bình Long tiếp tục hoạt động.
Bước sang đầu năm 1963, địch đổi tên “ấp chiến lược” thành “ấp Tân Sinh”, thực chất vẫn là “bình cũ rượu mới”, một cách gọi thay cho ấp chiến lược kiểu mới. Mỗi xã là một ấp chiến lược và quanh ấp là đường hào sâu, bên ngoài đường hào là hai lớp dây kẽm gai. Chúng bắt mỗi người dân tự chặt cây cột và tự đem về rào hai lớp, lớp trong và lớp ngoài, mỗi người phải rào 20 mét.
Tháng 2 năm 1963, được lực lượng của tỉnh hỗ trợ, gồm các đồng chí Lê Hùng, Sáu Ban, Ba Tranh Thủ, Sáu Du, du kích xã Minh Đức do các đồng chí Chín Lối, Tư Đạt chỉ huy chặn đánh một xe chở một trung đội bảo an từ Làng 5 về Làng 4 diệt gọn một trung đội, đốt cháy 01 xe, thu toàn bộ vũ khí.
Tháng 3 năm 1963, phát huy thắng lợi của quân và dân ở Ấp Bắc (Mỹ Tho), trong tình hình nội bộ địch đang rối ren, Trung ương Cục phát động phong trào “thi đua Ấp Bắc giết giặc lập công” nhằm phá quốc sách ấp chiến lược, đánh bại quân ngụy, tiến lên đánh bại “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ. Du kích xã được sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang tỉnh, huyện cùng với nhân dân Làng 7, Làng 8 phá banh ấp chiến lược Đức Hảo, bắt và diệt 3 tên ác ôn mật báo của địch. Sau đó hỗ trợ cho nhân dân Làng 5 nổi dậy phá banh ấp chiến lược Đức Thành, bắt và diệt 01 tên ác ôn.
Cuối năm 1963 đến năm 1965, chính quyền xã do tên Đào Viết Thu làm xã trưởng, tên Bảy Phước làm tiểu đội trưởng dân vệ, tên Hai Bé làm xã đoàn. Các tên này thường đưa lính về quấy phá rất thâm độc và chỉ điểm bắn giết nhiều người tham gia kháng chiến gây cho ta nhiều tổn thất tạm thời.Bên cạnh đó, chúng còn dụ dỗ, mua chuộc một số thanh niên người dân tộc thiểu số thành lập một toán biệt kích hàng ngày tổ chức lùng sục vào từng khu rừng, con suối gây cho ta khá nhiều khó khăn. Ban cán sự đảng HT A310 phân công các cán bộ người dân tộc như Điểu Hên, Điểu Quyết, Thị Chia, Điểu Phúc … đi sâu tuyên truyền, vận động các gia đình có người đi lính biệt kích vận động con em trở về, không làm tay sai cho giặc, không bắn giết đồng bào mình, nên sau đó toán biệt kích này đã hoàn toàn rã ngũ.
Để hỗ trợ cho xã Minh Đức, Tỉnh ủy điều đồng chí Tư Tỵ – cán bộ an ninh, về kết hợp với lực lượng an ninh của đồn điền Xa Cát do đồng chí Trần Cảnh (Ba Cảnh) chỉ huy và du kích xã để tiến hành đợt diệt ác phá kìm. Cử đồng chí Tư Tiến về làm trung đội trưởng du kích. Được sự hỗ trợ, Ban cán sự đảng HT A310 chỉ đạo du kích đánh thẳng vào khu trung tâm xã, ở đó có một tiểu đội dân vệ và một trung đội thuộc Sư đoàn 5 ngụy, sau đó là Làng 5 và Làng 8. Địch bỏ chạy toán loạn, ta tiêu diệt 4 tên, bắn bị thương 2 tên, sau đó hỗ trợ cho dân Làng 4 phá banh ấp chiến lược ở trung tâm xã, làm cho địch phải bỏ đồn đóng quân dã chiến.
Như vậy trong năm 1963, thực hiện chỉ đạo của Ban cán sư đảng HT A310, lực lượng du kích xã kết hợp với vũ trang của tỉnh đã hỗ trợ cho nhân dân nổi dậy giải phóng được Làng 5, Làng 7 và Làng 8. Bọn tề ấp lưu vong, ngụy quân của tỉnh kết hợp với lính Mỹ lâu lâu càn quét một vài lần vào địa bàn giải phóng. Địch lập ấp chiến lược và đóng đồn, chi bộ lại phát động nhân dân nổi dậy phá đi. Cán bộ và nhân dân xã Minh Đức hòa chung với khí thế đang lên của cách mạng toàn miền Nam, hàng trăm thanh niên tình nguyện thoát ly gia nhập các lực lượng vũ trang của tỉnh, huyện, hoặc tham gia các tổ chức cách mạng, đi dân công phục vụ chiến trường.
Giữa năm 1964, đoàn công tác Làng 6 - Làng 8 nhập vào đoàn công tác của đồng chí Tư Đạt. Khoảng cuối năm 1964, lực lượng dân quân du kích của xã đã có khoảng một trung đội, do đồng chí Tư Tiến làm xã đội trưởng chỉ huy, cộng với số cán bộ làm công tác chính trị đã đột nhập ấp chiến lược Đức Vĩnh 2 và Đức Vĩnh 3 hỗ trợ cho nhân dân phá 2 ấp chiến lược. Cuối năm 1964, hai ấp chiến lược này cũng là vùng tranh chấp giữa ta và địch. Bọn tề ấp và lính dân vệ chỉ có mặt ban ngày còn ban đêm chúng không dám ở lại mà lưu vong về thị xã An Lộc. Riêng ấp chiến lược Đức Vĩnh 1 nằm ngay mặt đường 13 nên không phá được, do địch tăng cường ở đây một lực lượng rất mạnh nhằm kiểm soát đường 13. Cán bộ, đảng viên của xã chỉ móc nối và thông qua cơ sở mật lãnh đạo nông dân, công nhân đấu tranh với địch và chủ đồn điền đòi quyền lợi cho công nhân. Lúc này Sở Một cũng đã phát triển được 01 chi bộ gồm 3 đảng viên, nhưng do địch tăng cường kiểm soát, các đảng viên bị lộ phải rút ra ngoài 2 đồng chí, giữ lại một đồng chí. Các chi bộ cũng được củng cố, tăng cường, lãnh đạo phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân, thông qua các cơ sở như anh Năm Thanh, anh Tư Liễn, chi Bảy Lịch Làng 1, Làng 2 và Làng 3; anh Hai Nhạt, đồng chí Sáu Nhượng ở Làng 4; anh Ba Đực, bà Bảy Muộn ở Làng 5; anh Năm Dặn, anh Năm Bặn, Tư Cú, ông Sáu Miền, ông bà Ly Bết ở Làng 7 …, để nắm tin tức tình hình của địch để thông báo kịp thời cho các đơn vị vũ trang bên ngoài tổ chức tiêu diệt địch, tiến hành công tác binh vận, vận động làm rã ngũ địch và đưa số binh sĩ địch rã ngũ ra vùng căn cứ để bổ sung cho các lực lượng vũ trang địa phương. Ngoài ra còn lãnh đạo tiếp tế lương thực, thuốc men và các nhu yếu phẩm cần thiết cho các lực lượng vũ trang ở khu căn cứ.
Cuối năm 1964 đầu 1965, trên địa bàn xã Minh Đức, các Làng 5, Làng 7, Làng 8 có thời gian ta hoàn toàn giải phóng, có thời điểm địch lại hành quân chiếm lại, ta và địch ở thế giằng co. Riêng ấp trung tâm xã (Làng 4) cũng là địa bàn tranh chấp giữa ta và địch. Có thời điểm bọn tề xã, ấp và dân vệ về làm việc ban ngày, ban đêm chúng chạy về An Lộc. Vì vậy, lực lượng vũ trang của xã đã nhiều lần dùng xe đưa rước công nhân ép quân trên xe chạy vào Làng 4 bất ngờ đánh tiểu đội dân vệ, đồng thời diệt ác ôn. Do mất địa bàn chiến lược nên tiểu khu An Lộc thường xuyên cho lính bảo an đi càn nhằm tiêu diệt lực lượng của ta, đồng thời bảo vệ phía Tây Nam An Lộc. Mỗi lần đi càn là một đại đội, chúng luôn bị trung đội du kích Minh Đức nổ súng đánh để bảo vệ vùng giải phóng. Một tháng nổ súng hơn chục trận, tiêu diệt từ 1 – 2 tên, có trận từ 5 – 6 tên.
Quá trình thực hiện nhiệm vụ, tuy địch gây cho cách mạng nhiều khó khăn nhưng dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Chi bộ, các cơ sở cách mạng và phong trào đấu tranh của nhân dân xã Minh Đức vẫn tiếp tục được duy trì, Tổ chức đảng, lực lượng vũ trang không ngừng lớn mạnh, trải qua nhiều gian lao thử thách được tôi luyện thêm ý chí, bản lĩnh ngoan cường và kinh nghiệm lãnh đạo, tổ chức chiến đấu, diệt ác, phá kìm, làm tan rã các “ấp chiến lược”, góp phần cùng quân dân cả nước một lần nữa đánh thắng chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ.