MINH ĐỨC TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC (1954 – 1975)

Thứ tư - 12/03/2025 21:46 577 0
Trong phong trào Đồng khởi 1959 1960, nhân dân miền Nam Việt Nam đã giành được chính quyền (Hình từ Inetrnet)
Trong phong trào Đồng khởi 1959 1960, nhân dân miền Nam Việt Nam đã giành được chính quyền (Hình từ Inetrnet)

Đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ, đòi thi hành hiệp định Giơnevơ, tiến lên đồng khởi (1954 – 1960)
Sau thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ và Hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương được ký kết, đánh dấu thắng lợi to lớn của nhân dân Việt Nam sau gần một thế kỷ đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược (1858 – 1954). Theo tinh thần nội dung của Hiệp định Giơ-ne-vơ (20-71954), đất nước ta tạm chia làm hai miền. Miền Bắc từ vĩ tuyến 17 trở ra hoàn toàn được giải phóng, miền Nam tạm thời đặt dưới sự quản lý của chế độ Ngô Đình Diệm. Hai năm sau (20-7-1956) sẽ tổ chức tổng tuyển cử thống nhất nước nhà. Song đế quốc Mỹ, với bản chất sen đầm hiếu chiến lại coi việc chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương như một “thảm họa” đối với chiến lược toàn cầu của chúng, một lần nữa chúng muốn biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới và là căn cứ quân sự, tiền đồn của Mỹ nhằm ngăn chặn sự ảnh hưởng lớn mạnh của chủ nghĩa cộng sản lan rộng ra Đông Nam Á.

Thực hiện mưu đồ đó, tháng 6-1954, Mỹ đã đưa Ngô Đình Diệm, kẻ được chúng nuôi dưỡng từ trước ở Mỹ về Sài Gòn. Tháng 10-1955 chúng bày trò “trưng cầu dân ý” để truất phế Bảo Đại, nâng Diệm lên chiếc ghế tổng thống, thu tóm mọi quyền hành, thiết lập bộ máy thống trị từ trung ương đến địa phương, làm tay sai đắc lực cho đế quốc Mỹ. Tháng 7-1954, trong khi hội nghị Giơ-ne-vơ về Đông Dương vẫn còn tiếp diễn, Trung ương Đảng đã tiến hành họp Hội nghị lần thứ VI (từ 15 đến 18-7- 1954) để thảo luận tình hình và nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới. Hội nghị khẳng định: Đế quốc Mỹ đã trở thành kẻ thù chính và trực tiếp của Nhân dân ta. Tiếp đó tháng 9-1945, Bộ chính trị Trung ương Đảng họp ra Nghị quyết về “Tình hình nhiệm vụ mới và chính sách của Đảng”, Nghị quyết đã xác định: “… Nhiệm vụ đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta chưa phải đã hoàn thành, cuộc đấu tranh đó còn đang tiếp tục nhưng phương thức đấu tranh cần phải thay đổi…”
Trước tình hình cách mạng đã chuyển sang giai đoạn mới, ngày 30 tháng 7 năm 1954, Tỉnh ủy Thủ Biên tổ chức hội nghị bất thường để bàn biện pháp thực hiện chủ trương của cấp trên về việc chuyển hướng đấu tranh và sắp xếp lại lực lượng, chuẩn bị chuyển quân tập kết. Ngày 22 tháng 9 năm 1954, Quận ủy Hớn Quản tổ chức quán triệt tình hình nhiệm vụ mới, sắp xếp lại bộ máy và đội ngũ cán bộ ở lại, chuyển hướng đấu tranh sang hình thức thích hợp với điều kiện lịch sử mới để vừa giữ gìn và xây dựng lực lượng cách mạng, vừa đấu tranh buộc địch phải thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Giơnevơ là chủ yếu. Sau khi xếp lại bộ máy, Huyện ủy Hớn Quản do đồng chí Vũ Đình Thính (Chín Thính) làm Bí thư, đồng chí Tám Cường (Năm Điền) làm Phó Bí thư, kiêm Bí thư Đảng ủy Cao su, đồng chí Nguyễn Khắc Thành - Thường vụ phụ trách dân tộc thiểu số, sau đó bổ sung thêm các đồng chí Ngô Tôn Quyền (Sáu Quyền), Nguyễn Văn Chức (Chín Chức), Lê Sắc Nghi (Bảy Nghi) từ Xuân Lộc chuyển lên. Đảng ủy cao su được thành lập lúc này gồm các đồng chí Tám Cường, Sáu Quyền (Sáu Xu), Út Quẹo, Nguyễn Văn Bào (Mười Bào), Lê Sắc Nghi (Bảy Nghi), Nguyễn Văn Lên (Tám Lên), Nguyền Văn Sao (Năm Sao), do đồng chí Tám Cường làm Bí thư.
Thực hiện chủ trương của Đảng, một số cán bộ kháng chiến chống Pháp của Minh Đức tập kết ra miền Bắc, số còn lại được huyện ủy giao bám sát địa bàn, kịp thời lãnh đạo nhân dân đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ, đòi hiệp thương tổng tuyển cử. Chi bộ xã được thành lập, gồm 5 đảng viên, do đồng chí Trần Xuân Phùng làm bí thư chi bộ, địa bàn hoạt động chủ yếu là vùng nông thôn, các sóc đồng bào dân tộc. Như vậy, lúc này trên địa bàn Minh Đức có 2 tổ chức đảng là chi bộ xã và chi bộ đồn điền Xa Cát.
Cuối năm 1955, chính quyền Ngô Đình Diệm đã sắp xếp lại địa giới và bộ máy hành chính, thành lập ủy ban tố cộng, diệt cộng từ Trung ương đến cơ sở, giải tán các Ban hội đồng xã trước đây, thực chất đây là chính sách tố cộng, diệt cộng. Xã Minh Đức cũng được thành lập, lúc này dân số khoảng 3.500 người. Tại đây, địch thiết lập một ủy ban hành chính (tề xã) có 5 - 7 người, một tiểu đội dân vệ do tên Cưng làm Chủ tịch, tên Trong làm Phó Chủ tịch, tên Năm Thạch làm cảnh sát. Đối với hộ các gia đình, chúng phân biệt bằng cách sơn một vạch khổ 15cm x 30cm trước cửa nhà các hộ, nhà có vạch đen là thân cộng, nhà có vạch đỏ là thân Ngụy. Chúng sắp xếp dân cư thành những “ngũ gia liên báo”, mỗi liên gia có khoảng 10 đến 15 gia đình, có 01 liên gia trưởng và một liên gia phó. Mỗi làng, mỗi sóc có 01 liên toán thanh niên cộng hòa. Trong liên toán chúng chia ra từ 3 toán trở lên, mỗi toán 12 người, đồng phục ka ki màu xanh. Tổ chức này do tên đoàn trưởng thanh niên xã phụ trách, còn việc huấn luyện quân sự cho tổ chức này do bọn dân vệ đảm trách huấn luyện. Do đó, sự quản lý rất chặt, nếu có người lạ đến là chúng biết ngay nên gia đình nào có thân nhân đến trú là phải mang giấy căn cước trình ngay liên gia trưởng. Nhân dân bị chúng phân chia ra làm 3 loại và ghi vào thẻ căn cước do chúng phát. Loại A gồm những đảng viên, cán bộ kháng chiến bị chúng liệt vào loại “công dân bất hợp tác”. Loại B gồm những người có dính líu đến kháng chiến như cha, mẹ, vợ, chồng, anh, em, con cái của đảng viên, cán bộ, du kích ... bị chúng liệt vào loại “công dân nửa hợp pháp”. Loại C gồm những người “không liên quan với Cộng sản” Thực chất của việc phân loại là dựa vào loại C đánh loại A và phân hóa loại B.
Ngoài bộ máy tề, điệp và các tổ chức “Thanh niên cộng Hòa”, “Phụ nữ liên đới”, chúng còn tung những đoàn “Công dân vụ” xuống các làng, các sóc tuyên truyền nói xấu cách mạng, nhằm ly gián cán bộ cách mạng với quần chúng nhân dân; vừa truy tìm những cán bộ kháng chiến cũ và gia đình của họ, buộc những người kháng chiến cũ phải ra trình diện, “đầu thú quốc gia ”, nhận giấy chứng nhận “cán bộ hồi cư” để quản thúc. Khi có lệnh của chúng, những người kháng chiến cũ phải ra đồn, bót hoặc trụ sở tề ngủ đêm, đến sáng mới được về nhà. Chúng quan tâm 
đặc biệt đến sự đánh phá phong trào cách mạng trong các đồn điền cao su Xa Cát, Xa Cam. Tại các đồn điền Xa Cam, Xa Cát, ngoài sự bóc lột của bọn chủ tư bản Pháp và đội ngũ cai, xu, xếp, công nhân còn phải chịu thêm một bộ máy kìm kẹp của chính quyền Diệm. Bọn này cấu kết với nhau rất chặt chẽ, chúng tổ chức việc quản trị đồn điền theo chế độ quân quản, phân chia bộ máy hành chính trong đồn điền giống như cấp quận, có đầy đủ hội đồng xã, trưởng đinh điền, liên gia trưởng. Mỗi xã còn được tăng cường thêm một đội dân vệ từ 7 đến 10 người, được trang bị từ 5 đến 7 cây súng để kiểm soát và trấn áp Nhân dân.
Đi đôi với việc kìm kẹp và khống chế đối với công nhân ở các đồn điền cao su, chúng còn ra sức vơ vét, bóc lột, đẩy họ vào cảnh bần cùng. Chúng lập ra cái gọi là “cộng đồng khế ước”, “nghiệp đoàn chủ nhân” để bảo vệ quyền lợi của bọn chủ. Do đó, đời sống của công nhân vốn đã khổ cực lại càng thêm khổ cực. Nạn thất nghiệp trở thành mối đe dọa thường xuyên đối với công nhân, một phần vì bọn chủ muốn trang bị lại phương tiện sản xuất, dùng máy móc chăm sóc cây cao su dẫn tới việc hàng nghìn công nhân bị sa thải, một phần vì có rất nhiều người đang tìm công ăn việc làm ở chung quanh các đồn điền và từ những nơi khác kéo về do nạn “dời nhà đuổi chợ” của chính quyền Ngô Đình Diệm.
Lợi dụng tình trạng này, bọn chủ tư bản Pháp đã tăng cường bóc lột công nhân bằng nhiều cách như lấy vào số “công nhân tùy dịp” (công nhân thời vụ) với đồng lương rẻ mạt, chia lại phần cây (tăng cây), mở thêm miệng cạo, ghép 03 phần cây làm một nhưng chỉ thêm một người bóc mủ chén, làm khoán nhưng ăn lương công nhật, kéo dài thời gian lao động dù trong khế ước có qui định một ngày chỉ làm 8 giờ, nhưng trên thực tế công nhân phải làm từ 11 đến 12 giờ/ngày. Công nhân nào không chịu nổi, chúng sẵn sàng sa thải để nhận thêm người mới, vì với những người mới được nhận vào này, chúng chỉ phải trả lương mà không có khoản phụ phí nào khác và muốn sa thải họ lúc nào cũng được.
Nhận rõ âm mưu và thủ đoạn xảo quyệt của kẻ thù tìm mọi cách để tách nhân dân ra khỏi Đảng, ra khỏi lực lượng kháng chiến để đi theo địch, các cán bộ, đảng viên ở Minh Đức đã xác định rõ nhiệm vụ lúc này là phải bám dân, vừa tuyên truyền giáo dục để nhân dân hiểu rõ về nội dung Hiệp định Giơnevơ, vừa vạch rõ âm mưu của địch và phát động quần chúng đấu tranh đòi thi hành Hiệp định.
Được sự phát động của Đảng bộ cao su miền Đông Nam bộ, chi bộ xã Minh Đức lúc này gồm các đồng chí Trần Xuân Phùng (Chín Phùng) – bí thư và các đảng viên Phạm Văn Trường, Trần Thị Ny, Phạm Văn Nhạc (Hai Thành) phát động công nhân và nông dân Làng 3, Làng 4, Làng 7 và Làng 8 đứng lên đấu tranh chống “trưng cầu dân ý” của tổng thống ngụy quyền Ngô Đình Diệm, bằng các hình thức đình công, biểu tình, gửi kiến nghị, tập trung vào mục tiêu đòi dân sinh, dân chủ, kết hợp với đấu tranh đòi tăng lương 50%, đòi chính quyền Diệm phải thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Giơ-ne-vơ. Các chủ đồn điền tìm cách trì hoãn trả lời yêu sách của công nhân để cùng chính quyền Ngô Đình Diệm ra qui định mức lương tối thiểu, nhưng trước sức mạnh của phong trào, chúng phải đồng ý tăng lên 37 đồng một ngày. Cuộc đấu tranh của công nhân cao su toàn miền nói chung, ở Minh Đức nói riêng, đã giành thắng lợi cơ bản.
Tháng 7 năm 1956, Mỹ – Diệm công khai tuyên bố không thi hành Hiệp định Giơnevơ, không tổng tuyển cử, đặt cộng sản “ra ngoài vòng pháp luật”, hô hào Bắc tiến, đẩy mạnh chiến dịch “tố cộng”, “diệt cộng”. Ngày 13 tháng 7 năm 1956, Diệm tiếp tục mở chiến dịch Trương Tấn Bửu do tướng Mai Hữu Xuân chỉ huy nhằm đánh phá cơ sở cách mạng và bắt hết số cán bộ nằm vùng ở lại...
Cuối năm 1956, sau khi củng cố được hệ thống chính quyền từ Trung ương đến xã ấp, cơ bản thanh toán xong các lực lượng giáo phái, Mỹ - Diệm tập trung lực lượng đánh phá cách mạng. Ngô Đình Diệm trắng trợn tuyên bố không thi hành Hiệp định Giơ - ne - vơ, hò hét lấp sông Bến Hải, “Bắc tiến” và đặc biệt nghiêm trọng là ban hành quốc sách “tố cộng, diệt cộng” trên toàn miền Nam. Ngày 13 tháng 7 năm 1956, Diệm tiếp tục mở chiến dịch Trương Tấn Bửu do tướng Mai Hữu Xuân chỉ huy nhằm đánh phá cơ sở cách mạng và bắt hết số cán bộ nằm vùng ở lại...
Ở Bình Long, địch triển khai chiến dịch Trương Tấn Bửu đến đồn điền Xa Cát, Quản Lợi, Xa Trạch và tiếp tục thực hiện ráo riết quốc sách “Tố cộng, diệt cộng”. Với khẩu hiệu “thà bắt lầm chứ không thả lầm”, “không có, đánh cho có, có đánh cho chừa”. Địch đã bắt hàng loạt đồng bào bị tình nghi, những người tham gia kháng chiến cũ và các cán bộ nghiệp đoàn của cách mạng.
Ở Hớn Quản, địch triển khai chiến dịch Trương Tấn Bửu “tố cộng, diệt cộng” tập trung vào các đồn điền Xa Cát, Quản Lợi, Xa Trạch nơi có nhiều công nhân tham gia cách mạng. Với khẩu hiệu “thà bắt lầm chứ không thả lầm”, “không có, đánh cho có, có đánh cho chừa”. Địch đã bắt hàng loạt đồng bào bị tình nghi, những người tham gia kháng chiến cũ và các cán bộ nghiệp đoàn của cách mạng. Trong một đêm ở Quản Lợi, chúng bắt đến 82 người. Ớ xã Minh Đức có một số cán bộ bị bắt như anh Vện, anh Mấm, anh Khuê và nhiều người khác. Bị tra tấn rất dã man, nhưng các anh vẫn không khai báo cơ sở cách mạng, riêng anh Vện đã nhảy xuống giếng Sở Nhì tự vẫn, chấp nhận hy sinh để bảo đảm an toàn cho cơ sở. Ngoài một số bị bắt, bị tù đày, một số đồng chí khác phải chạy vào rừng, số chưa bị lộ phải nằm im chờ đợt thời cơ. Đồng chí Trần Văn Phú được cử làm Bí thư Chi bộ thay cho đồng chí Chín Phùng bị lộ phải rút ra ngoài rừng.
Địch còn dùng nhiều thủ đoạn thâm độc như in truyền đơn giả, đêm đến đem nhét vào nhà dân để sáng hôm sau vu cáo và cho cảnh sát đến bắt, hoặc gài mật thám vào hàng ngũ công nhân giò xét nắm tình hình của công nhân. Cùng với chiến dịch “tố cộng, diệt cộng”, Mỹ- Diệm lập khu dinh điền, khu trù mật, nhằm tách quần chúng với cách mạng, giành lại quyền làm chủ ở nông thôn. Trong đợt tuyển cử bầu cử quốc hội ngày 4 tháng 3 năm 1956, chúng ép dân phải đi bầu, ai đi bầu chúng đóng mộc đỏ vào thẻ rồi mới cho đi lại, nếu không phải ở trong làng.
Mặc dù bị khủng bố gắt gao, bước đầu gây cho ta thiệt hại lớn, nhưng các cán bộ, đảng viên, cơ sở mật vẫn giữ vững niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, kiên trì vận động công nhân, nông dân đấu tranh chống bầu cử, kiên quyết tẩy chay cuộc bầu cử. Ngoài cuộc đấu tranh trên, công nhân Xa Cát, Xa Cam, Làng 3, Làng 4, và đồng bào các dân tộc thiểu số ở Minh Đức còn kiên trì tổ chức nhiều cuộc mít tinh, biểu tình đòi địch phải thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Giơnevơ, đòi tiến hành hiệp thương tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất nước nhà. Qua đấu tranh chính trị của quần chúng nhân dân ở Minh Đức, đã làm giảm uy thế của chúng ở địa phương, công nhân, nông dân càng đoàn kết, ý thức đấu tranh được nâng cao, làm cho bộ máy tề, điệp nhiều phen hoảng sợ.
Ngày 15 tháng 12 năm 1957, dưới sự lãnh đạo của đảng ủy đồn điền Xa Cát, công nhân Xa Cam tổ chức cuộc đấu tranh chống đạo luật 5/57 “đặt Cộng sản ra ngoài vòng pháp luật”, biểu tình chống khủng bố và đòi các quyền lợi về dân sinh dân chủ... Ngoài ra, còn đấu tranh chống lại bọn chủ bằng hình thức úp thùng đổ mủ để đòi thay gạo mục bằng gạo trắng.
Chiều ngày 15 tháng 1 năm 1958, hưởng ứng cuộc đấu tranh của 4.000 công nhân đồn điền Xa Trạch, hàng trăm công nhân đồn điền Xa Cam và các vùng ở gần đó cũng tham gia đấu tranh. Ba ngày sau có thêm 8 đồn điền khác bãi công ủng hộ cuộc đấu tranh là Sóc Tranh, Sóc Xiêm, Sóc Trào, Sóc Gòn, Sóc Lộc, Bò Com, Phố Lố, Phú Riềng đã làm bọn chủ thiệt hại trên một triệu đồng. Cuộc bãi công kéo dài 4 ngày phản đối chính sách khủng bố nghiệp đoàn và giành thắng lợi. Thời gian này, lực lượng cách mạng ở Minh Đức đã đấu tranh rất quyết liệt. Đồng bào được các đồng chí trong đội mũi công tác của quận ủy và các đảng viên của chi bộ tích cực vận động nhân dân đấu tranh, kiên quyết chống chế độ Mỹ - Diệm, không ở lại với chính quyền địch và bỏ vào rừng, ủng hộ cách mạng. Tuy nhiên, lực lượng cách mạng không thể tránh khỏi những hy sinh tổn thất. Một số cán bộ đảng viên và quần chúng cách mạng của Minh Đức đã bị giết hại hoặc bị bắt đi giam cầm ở nhà tù Phú Lợi, sau đó đã bị đầu độc chết vào năm 1958.
Từ năm 1959, địch đã thực hiện chính sách giãn dân, đưa dân Minh Đức từ khu tập trung Sở Tư vào Sở Nhất, Sở Nhì, Sở Ba, đặt tên là Đức Vĩnh 1, Đức Vĩnh 2 và Đức Vĩnh 3. Sang năm 1960, chúng còn đưa cả công nhân ra các làng 5, làng 7 và làng 8, dùng nhiều thủ đoạn lừa bịp, mị dân nhằm phát hiện và tàn sát những người tham gia kháng chiến.
 Để kịp thời lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống dã tâm chia cắt nhân dân với lực lượng kháng chiến của bọn đế quốc, Chi bộ xã Minh Đức tiến hành củng cố lực lượng du kích và các đoàn thể nhân dân, phát triển đảng viên đến các làng, các sóc, lãnh đạo nhân dân vũ trang đánh phá các “khu trù mật”; củng cố và tăng cường lực lượng cán bộ cho các cơ sở đảng, Quận ủy phân một công đoàn công tác về phụ trách xã Minh Đức, gồm các đồng chí: Nguyễn Văn Lên, Trương Ngọc Ẩn (Năm Ẩn), Ngô Tấn Đạt (Tư Đạt), Ba “tầm vông”, Bảy Thành, Tám Giá. Bắt đầu hoạt động như rải truyền đơn vạch trần âm mưu bán nước hại dân của Mỹ - Diệm, kêu gọi công nhân cao su đứng lên đấu tranh với chủ đồn điền, đấu tranh với Mỹ - Ngụy, đòi quyền dân sinh, dân chủ, xây dựng các tổ chức mật, xây dựng các cơ sở, phát động phong trào chống Mỹ rộng khắp trên địa bàn xã. Lúc này, trên quốc lộ 13 đoạn Tàu Ô, Cần Đâm, du kích xã kết hợp với bộ đội tấn công các đoàn xe (công va) chở lương thực, súng đạn, quân trang của ngụy từ Sài Gòn lên cung cấp cho ngụy quân, ngụy quyền tỉnh Bình Long. Trong khi đồng bào cả nước nói chung, đồng bào Nam Bộ nói riêng thiết tha mong muốn hòa bình, độc lập, thống nhất, thì chính phủ Ngụy quyền Ngô Đình Diệm tăng cường khủng bố những người yêu nước chân chính bằng những cực hình cực kỳ man rợ thời trung cổ, với thủ đoạn “diệt cộng sản không run tay, giết oan 100 người còn hơn bỏ sót một tên cộng sản”.
Ngày 6 tháng 5 năm 1959, Ngô Đình Diệm ban hành đạo luật phát xít 10/59. Chúng lê máy chém đi khắp nơi đàn áp phong trào và tàn sát những người đi theo cách mạng. Tội ác man rợ mới của kẻ thù càng như lửa đổ thêm dầu, mâu thuẫn giữa tầng lớp Nhân dân miền Nam với đế quốc Mỹ và tay sai trở thành gay gắt, lựa chọn con đường đấu tranh bằng vũ trang cách mạng lúc này là con đường sống duy nhất của Nhân dân miền Nam.
Trước tình thế cách mạng sôi sục và đứng trước xu thế vùng dậy, không thể kìm nén được nữa của quần chúng, ngay từ tháng 1 năm 1959, Trung ương Đảng đã mở Hội nghị lần thứ 15. Trên cơ sở phân tích tình hình xã hội miền Nam, Hội nghị Trung ương 15 xác định: “Phát động cao trào quần chúng nổi dậy có sự hỗ trợ tích cực của đấu tranh vũ trang, đưa phong trào cách mạng miền Nam chuyển sang thế chiến công giành chính quyền, làm chủ nông thôn”. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng có ý nghĩa lịch sử to lớn, mở đường cho cách mạng miền Nam tiến lên, xoay chuyển tình thế, đáp ứng nguyện vọng tha thiết và nóng bỏng của nhân dân miền Nam. Nghị quyết nhanh chóng được các cấp ủy quán triệt trong toàn Đảng, toàn quân và nhân dân, sau đó biến nghị quyết thành sức mạnh “Đồng Khởi” oanh liệt. Ở Nam bộ, ngay từ tháng 10 năm 1959, nhân dân trong một số vùng kháng chiến cũ đã vũ trang chống càn nổi dậy phá các “khu trù mật”, phá kìm kẹp làm tan rã bộ máy ngụy quyền.
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 15, ngày 17 tháng 01 năm 1960, tiếng súng Đồng Khởi ở Mỏ Cày, Minh Tân, Thạnh Phú – Bến Tre nổ ra, tiếp đó ngày 26 tháng 1 năm 1960, trận Tua Hai - Tây Ninh nổ ra và giành thắng lợi đã ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình vận động cách mạng của quân dân xã Minh Đức, một xã tiếp giáp với tỉnh Tây Ninh. Hưởng ứng phong trào Đồng Khởi, ngày 25 tháng 2 năm 1960, với vũ khí thô sơ, nhân dân Minh Đức cùng lực lượng vũ trang của huyện là đại đội 75, tấn công vào đồn điền và các đồn bót của giặc tiêu diệt nhiều tên ác ôn, dân vệ. Công nhân, nông dân, đồng bào các dân tộc đồng loạt đánh trống, rải truyền đơn, treo băng rôn, biểu ngữ, reo hò làm phân tán lực lượng và uy hiếp tinh thần địch, không cho chúng tập trung phản kích. Bọn dân vệ, cảnh sát hoảng hốt, hầu như không có một phản ứng đối phó nào, co cụm lại và tìm cách tháo chạy về An Lộc. Với cuộc đồng khởi này, ở xã Minh Đức và đồn điền Xa Cát ta còn tiêu diệt một số tên địch, thu được súng và nhiều đạn dược của chúng.
Thời kỳ 1954 – 1960 là những năm tháng rất khó khăn, gian khổ khi quân và dân Minh Đức phải đương đầu với kẻ thù mới, với những âm mưu, thủ đoạn tàn bạo hơn trước nhưng đã kiên cường đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ, đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ, đỉnh cao là phong trào Đồng Khởi. Trong cao trào Đồng Khởi, nhân dân Minh Đức đã vùng lên phá tan các khu trù mật, tiêu diệt bọn tề ngụy ác ôn, góp phần làm thất bại chiến lược “Chiến tranh đơn phương” của đế quốc Mỹ. Từ thời điểm này quân và dân Minh Đức chuẩn bị tinh thần bước vào thời kỳ mới cùng với lực lượng và nhân dân Hớn Quản đấu tranh với âm mưu của đế quốc Mỹ.

Nguồn tin: Lịch sử Đảng bộ xã Minh Đức. (Tái bản lần 6)

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Thống kê truy cập
  • Đang truy cập11
  • Hôm nay1,999
  • Tháng hiện tại5,987
  • Tổng lượt truy cập1,443,263
dvcqgian
dvc bp
hu hq
qlvb hq
PHÁP ĐIỂN
face book
face tu hao bp
Văn bản mới

Văn bản - Chỉ đạo điều hành

25/KT-UBND

KẾ HOẠCH RÀ SOÁT HỘ NGHÈO, HỘ CẬN NGHÈO ĐỊNH KỲ VÀ XÁC ĐỊNH HỘ LÀM NÔNG NGHIỆP, LÂM NGHIỆP, NGƯ NGHIỆP CÓ MỨC SỐNG TRUNG BÌNH TRÊN ĐỊA BÀN XÃ NĂM 2024

lượt xem: 202 | lượt tải:44

06/TB-UBND

THÔNG BÁO VỀ VIỆC CÔNG KHAI HỒ SƠ ĐĂNG KÝ BIẾN ĐỘNG ĐẤT ĐAI, TÀI SẢN GẮN LIỀN VỚI ĐẤT (NGUYỄN THỊ CHIẾN))

lượt xem: 159 | lượt tải:38

07/TB-UBND

THÔNG BÁO VỀ VIỆC CÔNG KHAI HỒ SƠ ĐĂNG KÝ BIẾN ĐỘNG ĐẤT ĐAI, TÀI SẢN GẮN LIỀN VỚI ĐẤT (NGUYỄN THỊ TIẾU)

lượt xem: 174 | lượt tải:36

10

KẾ HOẠCH TRIỂN KHAI VẬN ĐỘNG "QUỸ VÌ NGƯỜI NGHÈO" NĂM 2024

lượt xem: 259 | lượt tải:54

120

KHẨN TRƯƠNG THỰC CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG, CHỐNG BỆNH DỊCH BỆNH CÚM GIA CẦM A/H5N1 TRÊN ĐỊA BÀN XÃ MINH ĐỨC.

lượt xem: 190 | lượt tải:42
facebook minh duc
Nông thôn mới
đường dây nóng
hỏi đáp
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây