Điều kiện tự nhiên, văn hóa – xã hội

Thứ ba - 11/03/2025 23:58 26 0
Rừng cao su (2)
Rừng cao su (2)
1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên.
Là một xã trong 13 đơn vị hành chính của huyện Hớn Quản, phía Tây giáp xã Minh Tâm, phía Nam giáp 
xã Đồng Nơ, phía Bắc giáp thị xã Bình Long. Cách trung tâm thị xã Bình Long về phía Tây Nam 10 km; cách Trung tâm huyện lỵ Hớn Quản (xã Tân Khai) về phía Tây Bắc 05 km. Minh Đức có một vị trí chiến lược rất quan trọng trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Do địa hình phức tạp, có nhiều rừng rậm, là điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng thành hậu cứ của cách mạng, là nơi để lực lượng du kích, bộ đội địa phương và bộ đội chủ lực dừng chân, hoạt động; liên tục trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
Trước đây, trong tổng diện tích đất tự nhiên hơn 12.500 ha của Minh Đức thì rừng chiếm phần lớn, rừng có nhiều gỗ quý như giáng hương, gia đá, dầu và các loại cây thuộc họ mây, tre, nứa, lồ ô,…. Rừng là môi trường sống của muôn thú như: hươu, nai, mễn, trâu, bò rừng và các loài chim quý, là nơi che chở cho các đơn vị bộ đội, du kích trong những năm đánh Mỹ ác liệt. Tuy nhiên, theo sự phát triển kinh tế với sự tăng dân số cơ học, đến nay diện tích rừng tự nhiên ở Minh Đức không còn, thay vào đó là những cánh rừng cao su.
Địa hình Minh Đức có nhiều đồi thấp, chủ yếu là đất đỏ bazan, rất phù hợp với các loại cây công nghiệp như cao su, hồ tiêu, điều, cà phê… Do địa hình dốc, nên Minh Đức có sông Sài Gòn và hàng chục con suối chảy qua, như Suối Xa Cát, Suối Xa Cam, Suối Chà là, Suối Trầu, Suối Đá, Suối Cạn, Suối Nhân, Suối Chà Lon... cung cấp nguồn nước ngầm và thuận tiện cho việc khai khẩn đất hoang thành ruộng, rẫy canh tác, không những các loại cây công nghiệp như cao su, điều, hồ tiêu mà còn cho các loại cây lương thực như lúa nước, lúa rẫy, mỳ, bắp, … và chăn nuôi gia súc.
Đứng ngồi không yên với khu rừng cao su tuyệt đẹp ở Tây Ninh
Kết cấu cơ sở hạ tầng đang trên đà xây dựng và phát triển là điều kiện thuận lợi để Minh Đức thực hiện có hiệu quả các chương trình kinh tế - xã hội và đẩy nhanh xây dựng nông thôn mới. Hiện trên địa bàn xã hình thành nhiều tuyến giao thông liên xã như: Minh Đức - Thanh Bình, Minh Đức - Tân Khai, Minh Đức – Minh Tâm, Minh Đức - Đồng Nơ được trải nhựa, Minh Đức còn có hệ thống đường bê tông và đường sỏi cấp phối nối các ấp, sóc với nhau, tạo thuận lợi cho việc giao lưu, phát triển kinh tế, văn hóa trong và ngoài xã. Mạng lưới cấp, thoát nước, vệ sinh môi trường đã và đang từng bước được đầu tư xây dựng.
Minh Đức nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa ổn định, đặc trưng của vùng miền Đông Nam Bộ: nắng nóng và mưa nhiều, độ ẩm khá cao. Một năm khí hậu phân chia thành hai mùa rõ rệt. Mùa khô bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 4. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 10, mùa này khí hậu mát mẻ, ẩm ướt, cây cỏ tốt tươi, là mùa trồng tỉa của cư dân Minh Đức, là lúc sản xuất tấp nập. Khí hậu ở đây hầu như không có mùa đông nhưng biên độ chênh lệch giữa ngày và đêm khá lớn, ban ngày nắng nóng nhưng ban đêm nhiệt độ giảm dần.
Tổng diện tích tự nhiên toàn xã là 5.273,72 ha, được chia thành 05 ấp, gồm: ấp 1A, ấp 1B, ấp 2, ấp Chà lon, ấp Đồng Dầu và có 2 sóc: sóc Lộc Khê và sóc Ruộng. Trên địa bàn xã có một Nông trường cao su Bình Minh, Nông trường cao su Đồng Nơ thuộc Công ty Cao su Bình Long và hàng chục trang trại lớn nhỏ.
2. Văn hóa, truyền thống yêu nước.
2.1. Về Văn hóa.
Minh Đức là vùng đất hội tụ của 07 dân tộc anh em từ khắp mọi miền trong cả nước đến đây sinh cơ lập nghiệp. Đó là dân tộc Kinh, Xtiêng, Tày, Nùng, Mường, Khơ Me, Hoa sinh sống chan hòa với nhau, với đồng bào Xtiêng là người đến đây sớm nhất (bản địa) và cũng là dân tộc đứng thứ hai của xã về dân số, sau người Kinh.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, người dân Minh Đức sinh sống chủ yếu bằng nghề làm phu cao su cho các đồn điền, một số ít làm ruộng, rẫy hoặc làm thuê kiếm sống. Cũng từ cuộc sống bần cùng của người công nhân cao su, người dân đã sớm ý thức được nỗi nhục của những người dân mất nước và cũng từ đó ý chí cách mạng và quyết tâm đánh giặc ngày càng lớn mạnh.
Dân số toàn xã năm 1955 có khoảng 3.500 người. Trong đó, người dân tộc Xtiêng khoảng 700 - 800 người, còn lại là người kinh. Trong tổng số dân người kinh có khoảng phần nửa là dân công tra miền Bắc vào làm công nhân cạo mủ cho Pháp, còn lại là dân các tỉnh miền Đông Nam bộ như Gia Định, Biên Hòa, Thủ Dầu Một lên làm công nhân cạo mủ. Số đồng bào dân tộc Xtiêng sinh sống bằng nghề làm nương rẫy, săn bắt cá, chim, thú rừng theo lối sống du canh. Tất cả các thành phần cư dân trên đều mang trong mình tư chất của những người nông dân cần cù, dũng cảm; thật thà, chất phát, hào phóng, đoàn kết, giúp đỡ nhau trong lao động và xây dựng cuộc sống nơi vùng đất mới. Tháng 6 năm 2007, sau khi chia tách để thành lập xã Minh Tâm, dân số toàn xã 4.855 người với mật độ dân số bình quân 918 người/km2, đến nay (năm 2018) dân số Minh Đức 5.300 người
Địa bàn cộng cư này cũng đã tạo nên mối quan hệ, giao lưu văn hoá trên nhiều lĩnh vực. Chính sự giao lưu này đã tạo nên sự đoàn kết của người dân. Nét độc đáo về dân cư ở Minh Đức là sự quy tụ cư dân từ mọi miền trong cả nước cùng với người dân bản địa. Trong quá trình xây dựng cuộc sống, biết bao thế hệ đã cùng nhau vun đắp, bảo vệ mảnh đất này. Có thể nói, đây là hình ảnh thu nhỏ những tính chất, sắc thái của đại gia đình các dân tộc Việt Nam: giàu truyền thống yêu nước, đoàn kết, lao động cần cù, thông minh, sáng tạo.
Về trang phục của những con người vùng đất Minh Đức xưa bên cạnh người Kinh quen với công việc ruộng rẫy, họ chọn khăn rằn quấn cổ và áo nâu sòng, quần đen thanh thoát. Đặc biệt là chiếc áo bà ba là nét đặc trưng của người phụ nữ Nam bộ, nó tạo thành nét đẹp duyên dáng đậm đà của người dân Nam Bộ xưa và nét đẹp đó còn tồn tại đến tận ngày nay. Giữa quê hương miền Nam “hai mùa mưa nắng”, không biết tự bao giờ chiếc áo bà ba hiện hữu, đồng hành với người phụ nữ, là y phục đặc trưng cho tính cách dịu dàng của họ.
Ngoài dân tộc Kinh, dân tộc đông thứ hai ở Minh Đức là dân tộc Xtiêng cũng có một đời sống văn hóa đặc sắc. Người Xtiêng lúc đầu sống trong các ngôi nhà sàn làm bằng vật liệu tre, lồ ô, le và gỗ, lợp bằng cỏ tranh, nhà sàn có một cầu thang lên xuống. Xưa kia nam ở trần đóng khố, nữ ở trần mặc váy cuốn; họ biết dệt thổ cẩm và dùng tên, nỏ săn bắn. Trải qua lao động sản xuất, dần dần đời sống kinh tế khá hơn, đến nay phần lớn họ chuyển sang sống trong các căn nhà trệt, nhà xây, mọi người ăn mặc cải tiến hơn, nam mặc quần âu, áo sơ mi, nữ mặc váy hoặc quần âu, áo sơ mi. Trong những ngày lễ, chị em thường mặc những chiếc xà rông có hoa văn sặc sỡ và tinh tế, thể hiện sự khéo léo, uyển chuyển của người phụ nữ. Người Xtiêng có hai ngày lễ lớn là lễ cúng rẫy vào đầu năm và lễ cúng lúa vào cuối năm, để cầu xin ‘‘Giàng” - ông trời ban cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, bội thu, mọi người trong sóc được khỏe mạnh, ấm no. Xưa kia mỗi sóc đều có một bộ cồng chiêng, trong các buổi lễ, già làng làm chủ tế, họ thường giết heo, bò, đâm trâu, lấy phần đầu làm vật phẩm tế lễ, rồi ăn chung và cùng nhảy múa, ca hát trong tiếng nhạc cồng chiêng, trống và sáo.
 Người Xtiêng ở Minh Đức rất yêu văn hóa – nghệ thuật, biết quý trọng những giá trị truyền thống nhưng trải qua nhiều biến cố thăng trầm của lịch sử, nhất là do quá trình xâm lược, cai trị, đàn áp của thực dân, đế quốc, đến nay một số nét đẹp văn hóa của người Xtiêng bị mai một.
 Văn hóa của hai dân tộc trên cùng với văn hóa của các dân tộc khác đã tạo nên sắc thái văn hóa đa dạng của Minh Đức. Sự giao lưu và hiểu biết lẫn nhau với văn hóa giữa các dân tộc đã góp phần gắn kết và tạo sức mạnh cộng đồng to lớn để bảo vệ và xây dựng quê hương.
2.2. Về 
Tín ngưỡng, tôn giáo.

+ Tín ngưỡng dân gian.
Bên cạnh hoạt động văn hóa phong phú của các dân tộc, hoạt động tín ngưỡng dân gian ở Minh Đức rất đa dạng, cũng như một số vùng đất khác ở miền Đông Nam Bộ, tín ngưỡng của cộng đồng cư dân người Việt ở Minh Đức phần đông được hình thành trên cơ sở các tập tục truyền thống của làng xã miền Trung và miền Bắc Việt Nam, mà trực tiếp là mô hình thôn làng Thuận - Quảng được các nhóm lưu dân người Việt mang theo khi vào vùng đất mới. Cơ cấu tín ngưỡng, tôn giáo của cư dân ở Minh Đức là một tập hợp rất phong phú và nhiều vẻ về dạng thức được biểu hiện cụ thể như: lễ hội đình, lễ hội chùa Phật, thờ cúng ông bà tổ tiên.
Các hình thức lễ hội, thờ cúng có nguồn gốc xuất phát từ các nhóm cư dân mang theo đến vùng đất này nền văn hóa truyền thống làng xã và thiết chế văn hóa làng xã được định hình ngay trong quá trình khai hoang, lập làng xây dựng quê hương mới. Ngoài những đợt thực dân Pháp tuyển mộ dân từ miền Bắc vào làm công tra trong các đồn điền cao su ở Hớn Quản, đến năm 1954, lại có thêm dòng người do chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm lừa gạt cưỡng bức từ Bắc vào Nam và chính sách bố trí lại dân cư theo chủ trương của Đảng và Nhà nước sau năm 1975 từ miền Bắc, miền Trung, miền Nam, đã tạo nên cộng đồng cư dân Minh Đức ngày càng đông đảo, phong phú. Do đó, trong cộng đồng dân cư ở Minh Đức, tuy cùng thuộc hình thức tín ngưỡng – lễ hội của người Việt, song đối tượng thờ tự cũng như tâm lý tín ngưỡng cùng nghi thức cúng lễ rất đa dạng và phong phú.
Ở Minh Đức, hàng năm có Lễ hội cầu mưa của đồng bào Xtiêng thường diễn ra vào cuối mùa khô, đầu mùa
 mưa, cầu cho mưa thuận gió hòa để dân làng có một mùa vụ năm mới bội thu, cầu cho vạn vật sinh sôi nảy nở; đồng bào Xtiêng còn có lễ hội Phá Bàu; Ngoài ra Tết Chol Chnam Thmay cổ truyền (Tết năm mới) của bà con đồng bào dân tộc Khmer.
Tín ngưỡng tôn giáo.
Cũng như phần đông các xã trong huyện Hớn Quản nói riêng và Bình Phước nói chung, ở Minh Đức có nhiều tôn giáo khác nhau. Đạo Phật được truyền vào Minh Đức khi những cư dân người Kinh đầu tiên đến định cư ở vùng đất này. Tinh thần của Đức Phật là hướng con người đến chỗ hoàn thiện cả về nhân cách, phẩm chất đạo đức và năng lực của chính mình. Những nguyên tắc đó thường là các khuynh hướng hành động có lợi ích, suy nghĩ đúng đắn và ứng xử phù hợp. Đó chính là những nguyên tắc mà Đức Phật đã dạy: Không làm các việc ác, nỗ lực làm việc thiện và thanh lọc tâm ý. Hầu hết những người theo đạo Phật đều có lòng yêu nước, tham gia kháng chiến, ủng hộ cách mạng.
Đạo Công giáo cũng theo chân những tín đồ người Kinh đến khai khẩn vùng đất này từ những năm đầu thế kỷ 20. Tuyệt đại bộ phận đồng bào theo đạo đều là những người lao động, kính chúa, yêu nước, sống phúc âm trong lòng dân tộc.
Nhìn chung các tôn giáo ở Minh Đức với tôn chỉ hoạt động chung “tốt đời, đẹp đạo”; “sống phúc âm trong lòng dân tộc”, tuy giáo lý khác nhau nhưng tất cả đều hoạt động hòa hợp, sinh hoạt tôn giáo trong khuôn khổ pháp luật. Hiện nay toàn xã có 03 tôn giáo chính đang hoạt động là Phật giáo (chùa Đức Minh), Công giáo (Nhà thờ Minh Đức) và Tin Lành. Trong đó, một số lễ hội lớn của các tôn giáo đã thu hút được sự quan tâm của một bộ phận người ngoài tôn giáo, như: lễ Phật đản, Vu Lan (Phật giáo), lễ Giáng sinh, lễ Phục Sinh (Công giáo). Riêng số lượng tín đồ của đạo Tin Lành chiếm tỷ lệ rất ít nên trên địa bàn chưa có cơ sở thờ tự.
Ngoài 03 tôn giáo chính, còn đại bộ phận người dân Minh Đức có tín ngưỡng thờ cúng ông bà tổ tiên, là một tập tục truyền thống, có vị trí hết sức đặc biệt trong đời sống tinh thần của dân tộc Việt Nam, đây là đạo lý uống nước nhớ nguồn, một mặt con cháu bày tỏ lòng biết ơn đối với các bậc sinh thành, lúc họ đã chết cũng như khi còn sống. Mặt khác, nó cũng thể hiện trách nhiệm liên tục và lâu dài của con cháu đối với tổ tiên.

Chùa 1
Chùa Đức Minh đón nhận bằng xếp hạng di tích cấp tỉnh năm 2022

Suốt hai thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, kẻ thù luôn tìm mọi cách lợi dụng, chia rẽ dân tộc, tôn giáo nhằm chống lại cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Nhưng với chính sách đại đoàn kết dân tộc và tự do tín ngưỡng của Đảng Cộng sản Việt Nam, tuyệt đại bộ phận tín đồ các tôn giáo trong xã đều đứng về phía cách mạng, cùng toàn dân tiến hành cuộc kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng
Truyền thống yêu nước.
Cũng như nhân dân cả nước, truyềnthống yêu nước của người dân Minh Đức được hình thành từ thuở khai dân lập ấp, trước hết đó là tình yêu làng xóm, quê hương, tinh thần đoàn kết, ý chí tự lực tự cường để xây dựng quê hương giàu đẹp. Từ những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, đất nước ta hoàn toàn rơi vào tay thực dân Pháp xâm lược. Không cam chịu nỗi nhục mất nước và kiếp nô lệ, cùng với cả nước, Nhân dân Minh Đức đã liên tục nổi dậy đấu tranh chống bọn thực dân cướp nước và bè lũ tay sai bán nước. Thế nhưng, những cuộc khởi nghĩa, các phong trào đấu tranh của nhân dân từ những năm 20 (thế kỷ XX) trở về trước đều lần lượt thất bại, bị dìm trong máu và nước mắt. Trong bối cảnh lịch sử đó, ngày 5 tháng 6 năm 1911, từ bến cảng Nhà Rồng (Sài Gòn) người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành (với tên là anh Ba) làm phụ bếp trên tàu La Tút-sơ Tờ-rê-vin (LaTouche Tréville) ra đi tìm đường cứu nước. Bằng ý chí, nghị lực, lý tưởng giải phóng dân tộc Người ráo riết hoạt động truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam, tích cực lập các tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản để lãnh đạo Cách mạng Việt Nam đấu tranh giành độc lập tự do dân tộc.
Bước sang những năm đầu của thế kỷ XX, Để thu những món lời khổng lồ từ việc kinh doanh cao su, tư bản Pháp đã tìm mọi cách chiếm đoạt những vùng đất đai tốt nhất tại Cao Miên và vùng Đông Nam Bộ để trồng cao su. Tại Bình Phước, hai đại lý hành chánh được gấp rút thành lập tại Hớn Quản (1908) và Bà Rá (1920), nhằm mục đích đôn đốc, chỉ huy khai rừng và mở mang đường xá. Hai lộ 13,14 cũng như con đường xe lửa Sài Gòn - Lộc Ninh được hoàn thành, để vận chuyển cao su của công ty Mimot ở Phú Riềng - Phước Long, Xa Trạch, Quản Lợi, Xa Cam, Xa Cát - Hớn Quản, Bình Dương và Biên Hòa… về Sài Gòn để xuất cảng. Cũng từ đó, máu người Việt và đồng bào thiểu số Xtiêng, Khơme, Mnông... đổ hằng ngày trên vùng đất đỏ. Họ là phu đồn điền từ các tỉnh miền Bắc và Bắc Trung bộ, phần vì nghèo túng, mất mùa nên đành lìa bỏ quê cha đất tổ, lũy tre làng và mồ mả ông bà, để vào vùng rừng thiêng nước độc, bán mình làm thân nô lệ cho các công ty khai thác cao su của thực dân Pháp. Bên cạnh đó, còn có các phu làm đường; 13,14, đường xe hỏa. Nhưng dù là ai chăng nữa, tất cả cùng chung một số phận, chịu sự hành hạ dã man của bọn cặp rằng Pháp và dân bản xứ. Ngày ngày tháng tháng, những nấm mồ hoang vô chủ, bất hạnh, cứ nối tiếp nhau, mọc theo chiều dài của con đường từ Bến Cát, Lai Khê, Chơn Thành, Tân Khai... cho tới tận An Lộc, Lộc Ninh. Đời đã buồn rầu tận tuyệt, nên cảnh vật ở đây lúc nào cũng thấy cô đơn lạnh lẽo, nhất là màu đất đỏ, đã khiến đường 13 trở thành con đường máu hay tử lộ, ngay từ thời Pháp thuộc. Những đồn điền Xa Cam, Xa Cát không ngày nào là không có tiếng la hét của bọn cai, chúng đánh đập, hành hạ những người công nhân không đáp ứng được yêu cầu của chúng. Đời sống của người phu cao su ngày càng cùng khổ do sự bóc lột và cai trị hà khắc của chế độ thực dân. Một ngày người phu phải làm việc quần quật từ 10 đến 12 tiếng, bắt đầu từ 3 giờ sáng đến 8-9 giờ đêm mới về. Có hôm trút mủ xong sớm, từ 12 giờ trưa đến 5 giờ chiều, họ phải “làm khoán” một đoạn đê dài 3m, rộng 0,7m, cao 0,40m. Đắp xong, bọn cai xếp dùng giày đinh giẫm đạp lên mà không bị sụt lở mới được chấp nhận. Một ngày người công nhân chỉ được chủ Tây chia cho 400 gam gạo mốc và mấy con cá khô mục không còn giá trị dinh dưỡng, không đủ nuôi sống bản thân và gia đình. Cuộc sống cơ cực, đói khổ, ăn ở mất vệ sinh, phải sống chung với muỗi, mòng, vắt, kiến lửa, mối... bệnh ghẻ lở, sốt rét hoàn hành, thân xác tàn tạ, chỉ với da bọc xương, người phu còn chịu nhiều hình phạt vô nhân đạo mà bọn chủ trút lên đầu người công  nhân đồn điền như bắt quỳ và trói vào gốc cây mà đánh, bắt nằm sấp chống hai chân lên trời mà đánh cho nát hai gan bàn chân rồi bắt chạy bộ hai cây số; phụ nữ có thai, chúng bắt tự đào hố đặt vừa cái bụng chửa rồi bắt nằm úp xuống cái hố đó mà đánh. Nhiều chị em sau khi bị chúng đánh đòn, sảy thai và chết ngay tại chỗ.
Trong hoàn cảnh bị đọa đầy vùi dập, ý thức đấu tranh của công nhân, nông dân, đồng bào dân tộc luôn sôi sục. Năm 1908, hưởng ứng cuộc nổi dậy dưới sự lãnh đạo của Điểu Dố - người Xtiêng ở sóc Phú Bổn, Xa Trạch đã thu hút đông đảo đồng bào các dân tộc Xtiêng, Khơme và công nhân cao su các đồn điền Xa Cam, Xa Cát, họ đoàn kết cùng nhau đánh Pháp. Từ năm 1918 đến 1929, rất nhiều cuộc nổi dậy của nhân dân nổ ra, đặc biệt là các cuộc đấu tranh của công nhân cao su. Những hình thức phản kháng khá phổ biến là bỏ trốn, lãn công, triệt hạ cây trồng hoặc nổi dậy giết cai xu độc ác. Những hình thức này, nhìn chung chỉ mới dừng lại ở mức độ tự phát, diễn ra lẻ tẻ, chưa tạo được mối liên kết và phối hợp đồng bộ, vì vậy, hầu hết đều bị thất bại, phong trào đấu  tranh bị đàn áp, nhiều người tham gia đấu tranh bị chúng bắt bớ, tra tấn đến chết. Tuy nhiên, chính qua thực tiễn đấu tranh, đội ngũ công nhân, đồng bào các dân tộc càng thương yêu, đoàn kết gắn bó với nhau hơn, nhận thức về kẻ thù, về giai cấp ngày càng được nâng cao hơn, kinh nghiệm đấu tranh cũng được tích lũy ngày càng phong phú hơn.
Tháng 6 năm 1925, Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên (VNCMTN) được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc thành lập ở Quảng Châu (Trung Quốc), nhằm đẩy mạnh việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về nước, trước hết là trong phong trào công nhân. Tháng 4 năm 1928, chi bộ Hội VNCMTN đồn điền Phú Riềng được thành lập, nhanh chóng tạo ảnh hưởng rộng rãi trong phong trào công nhân cao su và phong trào cách mạng toàn tỉnh Thủ Dầu Một, trong đó có công nhân cao su ở Xa Cam, Xa Cát, Tân Khai.
Đêm 28 tháng 10 năm 1929, Chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng đồn điền cao su Phú Riềng được thành lập, gồm 6 đảng viên do đồng chí Nguyễn Xuân Cừ làm Bí thư. Đây là Chi bộ cộng sản đầu tiên của ngành cao su Việt Nam, đồng thời là tổ chức Đảng đầu tiên của tỉnh Bình Phước và của cả miền Đông Nam bộ lúc bấy giờ. Sự ra đời của tổ chức đảng ở Phú Riềng đã có tác động to lớn đến phong trào đấu tranh của công nhân, nông dân, từ đây mở ra bước ngoặt lịch sử mới.Phong trào đấu tranh của công nhân, nông dân có Đảng vạch đường chỉ lối, không còn mang tính tự phát như trước. Nó báo hiệu thời kỳ mới, một khi phong trào công nhân có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản thì tính tích cực, sáng tạo, tự giác và ý thức tổ chức kỷ luật của công nhân sẽ được phát huy cao độ, tạo nên sức mạnh lớn lao để giành thắng lợi.
Lịch sử Minh Đức từ ngày khai hoang đến nay là một quá trình đấu tranh, xây dựng phát triển và đầy biến động, gắn liền với lịch sử chung của huyện Hớn Quản. Đại bộ phận cư dân Minh Đức đều xuất phát từ nông dân.Trải qua nhiều thế hệ nối tiếp nhau, nhu cầu xây dựng cuộc sống, làm chủ thiên nhiên và đấu tranh chống ngoại xâm đã gắn bó họ thành một khối, có tinh thần yêu thương đùm bọc và nhất trí cao.Trên cơ sở lưu giữ tính cách dân tộc, quá trình đấu tranh để tồn tại và phát triển trong điều kiện lịch sử mới đã góp phần hình thành tính cách của người dân ở đây. Đó là tinh thần yêu quê hương, đất nước thiết tha; ý chí bất khuất, năng động trước mọi khó khăn; tinh thần chiến đấu táo bạo, kiên cường; phẩm chất tự lực tự cường, cần cù lao động; tinh thần tương thân tương ái, thủy chung, coi trọng tình nghĩa, không sợ gian khổ hy sinh, chung sức chung lòng chống kẻ thù xâm lược, xây dựng quê hương.
 

Nguồn tin: Lịch sử Đảng bộ xã Minh Đức, từ trang 15-28 (Tái bản lần 6):

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Thống kê truy cập
  • Đang truy cập46
  • Hôm nay1,077
  • Tháng hiện tại12,109
  • Tổng lượt truy cập1,405,709
dvcqgian
dvc bp
hu hq
qlvb hq
PHÁP ĐIỂN
face book
face tu hao bp
Văn bản mới

Văn bản - Chỉ đạo điều hành

25/KT-UBND

KẾ HOẠCH RÀ SOÁT HỘ NGHÈO, HỘ CẬN NGHÈO ĐỊNH KỲ VÀ XÁC ĐỊNH HỘ LÀM NÔNG NGHIỆP, LÂM NGHIỆP, NGƯ NGHIỆP CÓ MỨC SỐNG TRUNG BÌNH TRÊN ĐỊA BÀN XÃ NĂM 2024

lượt xem: 168 | lượt tải:39

06/TB-UBND

THÔNG BÁO VỀ VIỆC CÔNG KHAI HỒ SƠ ĐĂNG KÝ BIẾN ĐỘNG ĐẤT ĐAI, TÀI SẢN GẮN LIỀN VỚI ĐẤT (NGUYỄN THỊ CHIẾN))

lượt xem: 140 | lượt tải:34

07/TB-UBND

THÔNG BÁO VỀ VIỆC CÔNG KHAI HỒ SƠ ĐĂNG KÝ BIẾN ĐỘNG ĐẤT ĐAI, TÀI SẢN GẮN LIỀN VỚI ĐẤT (NGUYỄN THỊ TIẾU)

lượt xem: 147 | lượt tải:33

10

KẾ HOẠCH TRIỂN KHAI VẬN ĐỘNG "QUỸ VÌ NGƯỜI NGHÈO" NĂM 2024

lượt xem: 232 | lượt tải:49

120

KHẨN TRƯƠNG THỰC CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG, CHỐNG BỆNH DỊCH BỆNH CÚM GIA CẦM A/H5N1 TRÊN ĐỊA BÀN XÃ MINH ĐỨC.

lượt xem: 164 | lượt tải:37
facebook minh duc
Nông thôn mới
đường dây nóng
hỏi đáp
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây