MINH ĐỨC TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC  (1930 – 1954)

Thứ tư - 12/03/2025 04:09 96 0
Nhân dân Nam bộ nổi dậy kháng chiến chống Pháp
Nhân dân Nam bộ nổi dậy kháng chiến chống Pháp
MINH ĐỨC TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC  (1930 – 1954)
1. Phong trào đấu tranh cách mạng ở Minh Đức từ khi có Đảng đến cách mạng tháng tám (1930 - 1945)
Sau khi xâm lược và khai thác thuộc địa, ở Hớn Quản, ngoài hệ thống các đồn điền cao su, thực dân Pháp còn xây dựng tại các xã nhiều đồn, bót, thành lập lên các Hội đồng kỳ mục - cơ quan hành chính cấp xã, sau này gọi là hội tề. Tại Tân Khai – Minh Đức, chúng cũng thiết lập bộ máy cai trị, ngoài các chủ đồn điền Xa Cam, Xa Cát là người Pháp cùng bọn cai, xu, ký người Việt làm tay sai cho chúng, chúng còn lập bót Chà Là nằm trên đường 13 (ngày nay thuộc ấp Chà Là, xã Thanh Bình), dựng lên hội tề gồm 11 thành viên được sắp xếp theo thứ tự từ cao đến thấp: hương cả, hương chủ, hương sư, hương trưởng, hương chánh, hương giáo, hương quản, hương bộ, hương thân, xã trưởng, hương hào. Trong hội tề có  nhiều tên là phản động, làm tay sai cho thực dân Pháp, nhưng cũng có người vì cơ hội, cầu an nên tham gia.
Bước sang những năm 1930, đời sống của nhân dân ở Minh Đức, nhất là công nhân tại đồn điền cao su, công nhân ở ga Xa Cát cũng như ở nhiều nơi khác vô cùng khốn khổ. Do các phong trào đấu tranh diễn ra ở nhiều nơi và có sự lãnh đạo của Đảng nên thực dân Pháp, chủ đồn điền và bọn tay sai cho chúng tăng cường kiểm soát đời sống của nhân dân. Ở các làng, các sóc, đời sống của nông dân và đồng bào dân tộc thiểu số phải ăn củ rừng, không có vải để may mặc, phải dùng bao bố đan bằng vỏ cây rừng mặc thay quần áo. Đối với công nhân, chúng ra sức bóc lột thậm tệ, không chỉ kéo dài thời gian lao động, chúng còn cắt xén những đồng lương vốn đã còm cõi của công nhân. Chế độ ăn uống cũng rất kham khổ, buổi sáng chỉ được một chén cháo loãng, buổi trưa dùng cơm nắm gói mo với cá khô, uống nước lã, lại thường xuyên bị đánh đập man rợ không khác thân trâu ngựa, có người bị đánh chết ngay tại nhà điểm, hoặc trên lô rồi chôn ngay tại đó - chôn trần, không có tấm ván kê xác.
Tuy nhiên, trong hoàn cảnh bị đọa đầy vùi dập, ý thức đấu tranh của công nhân và nông dân ở Minh Đức càng sôi sục. Cuộc bãi công của 5.000 công nhân cao su Phú Riềng ngày 3 tháng 2 năm 1930, dưới sự lãnh đạo của chi bộ cộng sản, làm nên sự kiện “Phú Riềng đỏ” gây chấn động cả hệ thống “địa ngục cao su” Đông Dương và tiếp sau đó ngày 4 tháng 6 năm 1930, tại Thủ Dầu Một diễn ra cuộc biểu tình của 500 nông dân, đã ảnh hưởng sâu sắc đến niềm tin, ý thức tự giác đấu tranh có tổ chức, kỷ luật của công nhân và nông dân Minh Đức. Trước làn sóng cách mạng dâng cao, thực dân Pháp thi hành chính sách khủng bố trắng trên phạm vi toàn quốc, thẳng tay đàn áp lực lượng cách mạng, đánh phá cơ sở Đảng, cơ sở quần chúng. Phong trào công nhân cao su miền Đông Nam bộ lâm vào tình thế khó khăn nhưng vẫn liên tục diễn ra ở khắp mọi nơi. Mặc dù bị đàn áp, công nhân trong các đồn điền Xa Cam, Quản Lợi, Xa Trạch…, lần lượt nổi dậy đấu tranh mặt giáp mặt với chủ đồn điền, buộc chúng phải giải quyết những yêu sách không được phát gạo mục, cá thối cho công nhân. Thông qua những cuộc đấu tranh này, đội ngũ công nhân được củng cố, kinh nghiệm đấu tranh được tích lũy. Nhiều công nhân qua thử thách, trở thành cán bộ ưu tú của cách mạng.
doan quan nam tien vao nam bo chien dau
Ảnh Minh họa
Năm 1936, tình hình thế giới, trong nước có nhiều chuyển biến quan trọng.Đảng Cộng sản Đông Dương chủ trương phát động cao trào đấu tranh đòi dân chủ dân sinh. Tại Hớn Quản, được sự cổ vũ từ thắng lợi của cuộc đấu tranh của tù nhân Côn Đảo đòi thả tù chính trị, cải thiện chế độ lao tù, anh chị em công nhân các đồn điền cao su đã họp bàn cùng nhau hưởng ứng cuộc đấu tranh ấy, chuyển thành cuộc đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ, làm việc có giờ giấc, cải thiện điều kiện lao động, buộc bọn chủ đồn điền phải nhượng bộ. Trước kia, 3 giờ sáng bọn cai xếp điểm danh, 9 giờ đêm chúng mới cho về. Nhưng lúc này, 5 giờ sáng chúng mới bắt đầu điểm danh đi làm và 6 giờ tối chúng cho công nhân về. 
Từ cuối năm 1936, Đảng Cộng sản Đông Dương đề ra chủ trương mới là kết hợp các hình thức đấu tranh bí mật, công khai và bán công khai, mở rộng việc xây dựng tổ chức quần chúng, thành lập Mặt trận Dân chủ Đông Dương, đấu tranh đòi các quyền dân sinh, dân chủ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng nhân dân khắp ba miền Bắc – Trung – Nam được phục hồi nhanh chóng và dâng lên ngày càng mạnh mẽ.Tại các đồn điền cao su, các tổ chức cơ sở cũ của công nhân được củng cố, một số tổ chức cơ sở mới được hình thành, đóng vai trò nòng cốt trong nhiều cuộc đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ.
Ngày 1-9-1939, chiến tranh Thế giới lần thứ II bùng nổ, thực dân Pháp ra mặt khủng bố ngay phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa, đồng thời ban bố lệnh tổng động viên, tăng cường vơ vét sức người, sức của để phục vụ chiến tranh đế quốc. Ngày 28-9-1939, Phủ toàn quyền Đông Dương ra nghị định giải tán và tịch thu tài sản hội ái hữu, các nghiệp đoàn,… được thành lập trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ Đông Dương (1936-1939), mở đầu cho cuộc khủng bố quyết liệt khắp nơi trên toàn quốc. Trước tình hình đó, Trung ương Đảng đã kịp thời chỉ thị cho các cơ quan từ Trung ương đến các địa phương, cán bộ hoạt động hợp pháp và nửa hợp pháp phải mau lẹ rút vào bí mật, chuyển trọng tâm công tác về nông thôn.
Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng và Xứ ủy Nam kỳ về chuyển hướng công tác tổ chức và đấu tranh cho phù hợp với tình hình mới, từ cuối năm 1939, Tỉnh uỷ Thủ Dầu Một đã có kế hoạch đưa các tổ chức, cán bộ hoạt động công khai vào hoạt động bí mật, chuyển các cán bộ về các vùng nông thôn, các đồn điền cao su để phát triển các tổ chức cơ sở, gây dựng phong trào cách mạng như đồng chí Lê Đức Anh, Nguyễn Xang, Nguyễn Văn Tảng, Nguyễn Văn Chung đã chuyển hoạt động về vùng Hớn Quản, Lộc Ninh. Một số cán bộ đi vào các làng công nhân cao su gặp gỡ bà con, tuyên truyền giác ngộ cách mạng, vận động tổ chức ra các hội quần chúng như Hội đá banh, Hội đồng hương...
Cuối năm 1942, đồng chí Nguyễn Văn Bút (Năm Thành) và đồng chí Vũ Đình Thính (Chín Thính) được tổ chức đảng bí mật cử về lãnh đạo phong trào công nhân Nhà máy mủ Xa Cát tại Làng 4. Hai người đã tổ chức tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng trong công nhân, giác ngộ được hàng chục người ở nhà máy cơ khí, nhà máy chế biến và sửa chữa Sở Tư, như các anh Ba Đặng, Ba Đẩn, Bảy Cẩm, Sáu Quân, Chín Bách, Hai Lĩnh, Bảy Tồn, Hai Hoa, Ba Ưng, Tư Đông, Cò Anh, Cò Em, Lê Văn Mạnh, Sáu Bứu, Ba Thơm, Năm Nghỉ, Ba Chảnh, Ba Được, Tám Mẹo, Lang, Thi (1). Các anh em công nhân nêu cao tính tiên phong, xiết chặt hàng ngũ, đoàn kết với nông dân, liên tục đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ, làm việc có giờ giấc, cải thiện điều kiện lao động, buộc bọn chủ đồn điền Xa Cát phải nhượng bộ. Cuối năm 1943 đầu năm 1944, đồng chí Chín Thính tập hợp số công nhân này thành đội “Thanh niên tiền phong” do đồng chí Năm Thành và đồng chí Bảy Cẩm chỉ huy. Lực lượng lúc này được biên chế thành một tiểu đội, phối hợp với công nhân tổ chức đánh địch với các loại vũ khí thô sơ, như tầm vông, cung tên, giáo mác, chông bẫy, tổ chức phá đường, phá cầu và cướp súng của giặc để đánh giặc.
Ngoài tổ chức Thanh niên tiền phong, còn có các phong trào của các tổ chức phụ nữ, quốc gia tự vệ cuộc (tiền thân của công an vũ trang sau này) cũng được thành lập. Riêng quốc gia tự vệ cuộc do ông Sáu Sang làm đội trưởng. Lực lượng vũ trang lúc này có một trung đội (thuộc lực lượng của tỉnh) do đồng chí Lê Đức Anh chỉ huy đóng tại căn cứ Đồng Giăng ở Tân Khai.

Ngày 9 tháng 3 năm 1945, phát xít Nhật đảo chính hất cẳng thực dân Pháp ở Đông Dương. Tại Hớn Quản, chính quyền phát xít Nhật đưa đám người Việt tay sai lên làm quận trưởng, quận phó, thiết lập bộ máy hành chính mới. Nhật dùng lại toàn bộ các ban tề để tiếp tục thực hiện việc bắt nhân dân nộp sưu thuế, chặt cây làm công sự và hầm trú ẩn cho chúng... Tại đồn điền Xa Cát, quân Nhật chiếm lấy công sở để đóng quân, ra lệnh ngừng sản xuất cao su, bắt công nhân đi đào công sự.Hàng ngày, chúng phát cho mỗi người hai lon gạo, một lon tương, không trả tiền công.Cảnh đói khát, chết chóc diễn ra hàng ngày, hàng giờ đối với công nhân.Dưới ách thống trị của chế độ phát xít, đời sống công nhân, nông dân và đồng bào các dân tộc vô cùng điêu đứng. Họ sôi sục căm thù, sẵn sàng đứng lên một khi thời cơ đến.
Ngày 12-3-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Thực hiện chỉ thị của Trung ương, Ban cán sự Đảng Thủ Dầu Một họp hội nghị quán triệt chủ trương của Đảng về chuẩn bị tổng khởi nghĩa. Đồng chí Lê Đức Anh được phân công lãnh đạo công nhân các đồn điền cao su và nông dân ở Hớn Quản, Lộc Ninh chuẩn bị khởi nghĩa. Thời gian này, hàng loạt các tổ chức đoàn thể ra đời và bắt đầu hoạt động công khai như: Thanh niên tiền phong, công nhân cứu quốc, Hội Phụ nữ và các đội tự vệ - lực lượng võ trang của công nhân. Nhân Dân trong các làng của Minh Đức tích cực rèn dao, đồng bào dân tộc làm ná, vót cung tên ủng hộ cách mạng, thành lập đội tự vệ, trang bị cung tên, ná, súng săn, gậy gộc hăng hái luyện tập và chuẩn bị mọi mặt để khởi nghĩa giành chính quyền.
Ngày 20 tháng 8 năm 1945, Xứ ủy Nam kỳ họp Hội nghị tại Chợ Đệm do đồng chí Trần Văn Giàu chủ trì để phổ biến kế hoạch tổng khởi nghĩa ở Nam bộ. Ngày 25 tháng 8 năm 1945, thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy và Ủy ban khởi nghĩa, nhân dân Minh Đức đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền trong khí thế tiến công sôi sục, tại các đồn điền Xa Cam, Xa Cát...đồng chí Nguyễn Văn Bút (Năm Thành) tổ chức cho công nhân nổi dậy tổ chức mít tinh rồi chuyển sang biểu tình, trang bị xẻng, cuốc, thuổng, gậy gộc, xà beng, kìm, búa, có cả súng  trường và lựu đạn, kéo nhau đi chiếm nơi ở và làm việc của bọn chủ Tư Bản, giành lại quyền làm chủ đồn điền và Nhà máy mủ Xa Cát. Cùng với nông dân, thanh niên dân tộc liền dùng gậy tầm vông vót nhọn và dao găm cùng một ít súng kéo tới vây các đồn bót Chà La, tịch thu súng của lính Nhật. Trước sức mạnh đấu tranh của công nhân, ở hầu hết các đồn điền, các chủ tư bản và chỉ huy quân Nhật đều run sợ. Chúng phải trao chìa khóa tủ sắt, nhà xưởng, kho tàng, máy móc trong các đồn điền cho đại biểu công nhân.
Sau khi giành lại quyền quản lý các đồn điền, đông đảo công nhân cùng với đồng bào các xã Kinh và đồng bào các dân tộc kéo về chợ Hớn Quản, tổ chức một cuộc mít-tinh lớn nhằm biểu dương lực lượng cách mạng, đồng thời cướp chính quyền ở quận lỵ.
Ngay sau thắng lợi của cuộc tổng khởi nghĩa, chính quyền cách mạng huyện Hớn Quản và các xã được thành lập. Ủy ban nhân dân Quận Hớn Quản do ông Phạm Văn Tốt (Út Tốt) làm Chủ tịch và ông Lân làm phó chủ tịch lâm thời, đóng trụ sở tại thị trấn Hớn Quản. Tại các đồn điền Xa Cam, Xa Trạch chính quyền cách mạng cũng được thành lập do chính những cán bộ và công nhân làm chủ. Ngoài ra, công nhân còn cử đại biểu tham gia các ủy ban nhân dân địa phương, góp sức xây dựng chính quyền mới.
Để tăng cường lãnh đạo nhân dân xây dựng và bảo vệ thành quả vừa mới giành lại được, Ủy Ban nhân dân quận thành lập các tổ chức chính trị và quân sự như Quận bộ Việt Minh, Quốc gia tự vệ cuộc. Lực lượng “Quốc gia tự vệ cuộc” do đồng chí Tám Ngân - nguyên trưởng ga Xa Cát- làm chỉ huy trưởng, có nhiệm vụ giữ gìn an ninh, trong đó có bộ phận công an xung phong do đồng chí Chín Chức chỉ huy, chuyên lo việc trừ gian diệt ác. Ngoài ra còn có lực lượng vũ trang tập trung gọi là “Quốc vệ đội” do các đồng chí Hai Rua, Ba Lung, Chín Chánh, Năm Kính chỉ huy với phạm vi hoạt động từ Minh Thạnh, ngược lộ 13 lên Hớn Quản. Ở các xã, các đội Thanh niên được củng cố, kiện toàn lại trên cơ sở tổ chức Thanh niên tiền phong trước đây. Mỗi đội Thanh niên có đội trưởng, đội phó và liên lạc, được trang bị bằng dao găm, tầm vông vạt nhọn, dây thừng, thường xuyên tập dượt đội hình, đảm nhận nhiệm vụ tuần tra, canh gác, giữ gìn trật tự trị an.
Ở Minh Đức, sau khi khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi, đầu tháng 9 năm 1945, đồng chí Trần Văn Giàu và đồng chí Kiều Đức Thắng lên Sở Tư chỉ đạo thành lập chính quyền cách mạng gồm các ông Tư Sóc, Xu Nhường, Đội Cang, Ba Cảnh, Ba Len, trụ sở đặt tại nhà Tây – Làng 4. Ông Đội Cang phụ trách huấn luyện cho thanh niên gồm công nhân cạo mủ, công nhân nhà máy mủ nước, mủ khô, tổng số khoảng 200 người.Tiếp đó, Ủy Ban Nhân dân quận thành lập các tổ chức chính trị và quân sự như Quận bộ Việt Minh, Quốc gia tự vệ cuộc. Lực lượng “Quốc gia tự vệ cuộc” do đồng chí Tám Ngân - nguyên Trưởng ga Xa Cát- làm chỉ huy trưởng, có nhiệm vụ giữ gìn an ninh, trong đó có bộ phận công an xung phong do đồng chí Chín Chức chỉ huy, chuyên lo việc trừ gian diệt ác. Ngoài ra còn có lực lượng vũ trang tập trung gọi là “Quốc vệ đội” do các đồng chí Hai Rua, Ba Lung, Chín Chánh, Năm Kính chỉ huy với phạm vi hoạt động từ Minh Thạnh, ngược lộ 13 lên Hớn Quản, ở các xã, các đội Thanh niên được củng cố, kiện toàn lại trên cơ sở tổ chức Thanh niên tiền phong trước đây. Mỗi đội Thanh niên có đội trưởng, đội phó và liên lạc, được trang bị bằng dao găm, tầm vông vót nhọn, dây thừng, thường xuyên tập dượt đội hình, đảm nhận nhiệm vụ tuần tra, canh gác, giữ gìn trật tự trị an.
Sau hơn 80 năm làm nô lệ nhân dân Minh Đức đã chuyển sang một cuộc đời mới. Những người công nhân, nông dân từ kẻ mất nước, sống dưới đáy của chế độ thực dân, phát xít, phong kiến, bị bóc lột đến mức bần cùng và bị hành hạ dã man không khác gì thân phận ngựa trâu, thì hôm nay đã trở thành người dân của nước Việt Nam độc lập, làm chủ nhà cửa, đồn điền, ruộng rẫy, núi rừng, không có gì sung sướng, hạnh phúc hơn khi thực sự làm chủ đời mình, vì thế họ ra sức tham gia vào công cuộc kiến thiết, xây dựng và bảo vệ nền độc lập non trẻ của dân tộc.
2. Minh Đức trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời là một bước ngoặt vĩ đại trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. Lần đầu tiên sau gần 100 năm mất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo toàn dân thực hiện thắng lợi ước mơ bao đời của dân tộc: Tự do, độc lập, Nhân Dân làm chủ vận mệnh của mình.
Tuy nhiên, nền độc lập giành được chưa đầy một tháng thì đêm 22 rạng ngày 23 tháng 9 năm 1945, thực dân Pháp đã theo gót quân Anh, với danh nghĩa quân Đồng minh vào giải giáp quân đội Nhật, trắng trợn tấn công trụ sở Ủy ban nhân dân Nam Bộ và cơ quan tự vệ thành phố Sài Gòn, chính thức trở lại xâm lược nước ta. Trước dã tâm lộ rõ của kẻ thù, sáng 23 tháng 9 năm 1945, Xứ ủy và Ủy ban nhân dân Nam bộ ra lời kêu gọi đồng bào đứng lên kháng chiến.
Ngày 25 tháng 12 năm 1945, giặc Pháp đánh chiếm thị xã Thủ Dầu Một, dưới sự yểm trợ của quân Anh, thực dân Pháp mở thông được Quốc lộ 13, lần lượt chiếm đóng Hớn Quản, Lộc Ninh.Tuy nhiên, đi đến đâu chúng cũng bị lực lượng cách mạng phục kích, đánh tiêu hao nên buộc phải lui quân. Phong trào bất hợp tác với địch đã được công nhân, nông dân ý thức từ trước. Tất cả kho tàng, nhà máy, công sở được nhân dân Xa Cát, Xa Cam, Làng 4, Sở Nhì tiến hành tháo gỡ máy móc, vận chuyển lương thực vào rừng lập làng chiến đấu, ga xe lửa Xa Cát cũng bị đập phá hoàn toàn. Thanh niên, công nhân, nông dân, đồng bào dân tộc trong các làng, sở ở Minh Đức nô nức tình nguyện tham gia đi kháng chiến. Hàng trăm thanh niên được ông Đội Cang huấn luyện đã gia nhập vào đơn vị Vệ quốc đoàn, rút về khu vực Thuận Lợi, Phú Riêng, thành lập một trung đội. Từ đây, khu vực Minh Đức– Tân Khai trở thành một trong những vùng căn cứ nổi tiếng của các lực lượng vũ trang tỉnh.
Sau khi chiếm Minh Đức, thực dân Pháp thiết lập lại các hội tề và bố trí thêm các tổ chức tề điệp xuống tận các làng, các sóc. Chúng quy tụ tay chân là bọn chủ đồn điền, bọn tay sai ác ôn trước đây để thiết lập bộ máy cai trị và tiến hành hàng loạt các cuộc bắn giết trả thù những người yêu nước, ủng hộ cách mạng, bắt công nhân trở lại đồn điền Xa Cam, Xa Cát làm việc. Mặt khác, nhằm tách nhân dân khỏi phong trào công nhân, địch lại chuyển dân từ Xa Cát qua Sở Nhì. Hàng ngày chúng phát gạo pha nhiều thóc, nhân dân vẫn dành dụm từng lon gạo ủng hộ Việt Minh. Để ngăn chặn sự ủng hộ của nhân dân đối với cách mạng, địch chuyển sang phát cơm, mỗi ngày chúng phát 02 lần, mỗi lần mỗi gia đình được 400 g cơm, nhưng nhân dân đem phơi khô rồi bí mật đưa ra rừng ủng hộ Việt Minh. Sau đó chúng phát hiện và tra tấn hết sức dã man những người ủng hộ cách mạng. Địch trói hai tay, hai chân các ông cai Tòng, cai Mi, cai Diệm…. lôi đi bằng xe Jeep, nhưng do không khai thác được tin tức về cơ sở cách mạng, chúng đành nhốt các ông vào nhà tù. Nhiều thanh niên mười sáu đôi mươi đã bí mật chạy ra ngoài rừng bổ sung vào lực lượng du kích, quyết không chịu sự kìm kẹp, tra tấn dã man của kẻ thù.

Nhân dân Nam bộ nổi dậy kháng chiến chống Pháp. Ảnh tư liệu
Đầu tháng 8 năm 1946, Các đồng chí Mười Lũy, Bảy Phú, Tư Nhiếp (tức Hiệp), Sáu Lục và ông Đỗ Văn Khối thuộc Chi đội 1 của tỉnh Thủ Dầu Một được cử về hoạt động ở đồn điền Xa Cát nhằm tăng cường thêm lực lượng xây dựng cơ sở ở các đồn điền. Khi hoạt động xây dựng cơ sở và địa bàn đang tiến hành thuận lợi thì cơ sở bị lộ, các đồng chí buộc phải rút ra ngoài rừng. Địch tăng cường khủng bố, tra tấn dã man những công nhân chúng nghi là cơ sở của lực lượng kháng chiến, trong đó có anh xu Cảnh ở Xa Cát bị đem xử tử hòng răn đe phong trào, nhưng các anh em công nhân là cơ sở của ta kiên quyết không khai báo. Phong trào đấu tranh của công nhân tuy lắng xuống nhưng mọi hoạt động kháng chiến, cung cấp thông tin về tình hình của địch nói chung vẫn tiếp tục được duy trì.
Cuối tháng 12 năm 1946, Tỉnh ủy Thủ Dầu Một thành lập Ban cán sự Đảng quận Hớn Quản – sau đó đổi thành Quận ủy lâm thời, do đồng chí Lê Đức Anh (2)  làm bí thư. Ủy ban kháng chiến hành chính quận Hớn Quản do đồng chí Vũ Đình Thính chủ tịch (sau làm bí thư quận ủy kiêm chủ tịch), đồng chí Hai Lĩnh phó bí thư kiêm phó chủ tịch, đồng chí Chín Do làm huyện đội trưởng, đồng chí Bảy Mỳ làm trưởng công an huyện (3), Quận ủy, ủy ban kháng chiến hành chính quận khi đó đóng tại xã Tân Khai. Dưới sự chỉ đạo của Quận ủy và Ủy ban kháng chiến hành chính quận, nhiều nơi đã thành lập được đội du kích, vũ khí được trang bị chủ yếu là gậy gộc, giáo mác. Ở Minh Đức, nhiều thanh niên cũng tích cực tham gia lực lượng du kích của xã Tân Khai.
Tháng 5 năm 1947, thực hiện chỉ đạo của Quận ủy Hớn Quản, đồn điền Xa Cát, xã Tân Khai và một số nơi khác đã thành lập được chi bộ. Từ đây, phong trào đấu tranh cách mạng của Nhân Dân và lực lượng du kích ở Minh Đức có sự lãnh đạo trực tiếp của chi bộ xã Tân Khai và chi bộ đồn điền Xa Cát. Đồng thời, Minh Đức cũng trở thành một trong các căn cứ cách mạng của đảng bộ quận Hớn Quản và bộ phận tiền phương Tiểu đoàn 903. Trên địa bàn lúc này vừa có lực lượng tại chỗ như chị Linh; chị Bách, bà Bảy Nuộn, anh Điểu Hên, anh Đỗ Văn Xược và hơn 20 thanh niên khác. Một số xu cai thân cách mạng như các ông: Chín Triều, Sáu Thiệu, Ầm, Ì, Ưng, Tỏi là những cơ sở tích cực. Lực lượng ở tỉnh có đồng chí Nguyễn Văn Trường (thường gọi là Tư Trường Sơn) của Đại đội 3 quân chủ lực Thủ Dầu Một về Minh Đức để tham gia bảo vệ đội ngũ cán bộ đang hoạt động bí mật trên địa bàn. Ngay từ giai đoạn này ở Minh Đức đã có một mạng lưới cách mạng vững chắc so với các địa bàn khác của toàn huyện, đảm bảo nuôi giấu lực lượng cách mạng một cách an toàn triệt để.
Lo sợ trước sự lớn mạnh của phong trào kháng chiến của nhân dân, đầu năm 1947, quân Pháp mở tuyến đường từ Minh Thạnh lên Xa Cát nhằm chia cắt vùng căn cứ cách mạng Truông Ba Trường, ngăn chặn sự ảnh hưởng xâm nhập của lực lượng kháng chiến và kiểm soát, ngăn chặn nhân dân Minh Đức, Tân Khai thoát ly vào rừng tham gia kháng chiến.
Đêm 12 tháng 11 năm 1947, lực lượng kháng chiến đột nhập bót địch diệt 5 tên lính Com-măng-đô và đốt kho mủ bánh nằm cạnh Sở Tư. Để đối phó với du kích cách mạng, đầu năm 1948, quân Pháp liên tục tổ chức lực lượng Com-măng-đô chuyên đi lùng sục, càn quét quyết liệt các địa bàn, mở nhiều cuộc càn quét vào các khu căn cứ. Ở ven bìa sở Xa Cát, sau khi phát hiện đây là nơi đóng quân của bộ phận tiền phương Tiểu đoàn 903, chúng cho xe ủi khu rừng này ra từng khu vực nhỏ nhằm bao vây tiến tới tiêu diệt toàn bộ lực lượng kháng chiến. Nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ quận Hớn Quản, sự giúp đỡ nhiệt tình của Nhân dân Minh Đức và sự mưu trí, dũng cảm của lực lượng kháng chiến, với lối đánh du kích “lấy ít địch nhiều” “lấy yếu thắng mạnh”, Tiểu đoàn 903 đã từng bước ngăn chặn bước tiến của địch, vừa bảo vệ cho các cơ quan của quận Hớn Quản từ Tân Khai và một bộ phận nhân dân dời về hai xã An Long, An Linh lập căn cứ. Lúc này, ở Xa Cát, địch hình thành thế chốt cụm từ đó bung ra đánh phá, càn quét, gom dân cao su. Công nhân đồn điền hàng ngày ra lô làm đều có lính đi theo tuần tra, canh gác chặt chẽ, hòng ngăn chặn họ tiếp tế lương thực, thực phẩm cho kháng chiến và sự xâm nhập của lực lượng cách mạng.
Năm 1948, thực hiện chủ trương của Quận ủy Hớn Quản là rút thanh niên, du kích ra vùng căn cứ, tăng cường xâv dựng lực lượng vũ trang, bổ sung quân số và phân chia phạm vi hoạt động cụ thể cho Quốc gia tự vệ cuộc, tiến hành trừ gian diệt tề. Một số thanh niên, du kích được rút ra căn cứ ở Xa Trạch tiếp tục chiến đấu, còn lại vẫn bám dân tiếp tục hoạt động. Thời gian này, đồng chí Vũ Đình Thính chỉ huy lực lượng du kích đốt cháy Nhà máy mủ Xa Cát tại Làng 4 làm cho chúng phải ngưng sản xuất mấy tháng trời. Ngoài ra, còn phối hợp có hiệu quả cùng lực lượng vũ trang diệt ác, trừ gian, như vụ diệt tên ác ôn Chánh văn phòng đồn điền Xa Cam là Huỳnh Kim Trọng, tên mật thám Tư Bé tại ngã ba Xa Cát hoặc vụ giết hụt tên Chét Tạch ở sở đồn điền Xa Cam.
Năm 1949, Quận ủy cử các đồng chí Nguyễn Văn Bút (Năm Thành), Trần Văn Phùng (Chín Phùng), Lâm Văn Ưng, Hai Giàng, Cô Yến, Bảy Thiệt, Hai Lĩnh và Vũ Đình Thính (Chín Thính) về nằm vùng hoạt động tại Minh Đức. Cùng với lực lượng kháng chiến xâm nhập vận động được gần 50 thanh niên của đồn điền Xa Cát thoát ly đi theo kháng chiến, đưa về bổ sung cho Tiểu đoàn 903, một số được đưa về bổ sung lực lượng vũ trang đóng ở Hớn Quản.
Trong giai đoạn 1949 - 1952, thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy Thủ Biên Chi bộ đồn điền Xa Cát và các cán bộ, đảng viên nằm vùng tại Minh Đức  đã tổ chức nhiều trận đánh địch đi càn trên đường 13 và các đồn điền Xa Cam, Xa Cát, bót Chà Là, Sở Nhì gây cho chúng nhiều tổn thất; phá thế phong tỏa bao vây kinh tế của địch; đánh mạnh giao thông, đồn bót, buộc chúng phải quay về vùng tạm chiếm; ra sức tăng cường sản xuất lương thực đi đôi với bảo vệ căn cứ; tăng cường lực lượng vũ trang và cơ sở; tập trung xây dựng căn cứ địa vững mạnh cả về quân sự, chính trị và kinh tế.
Trên mặt trận đấu tranh chính trị, tháng 2 năm 1952, hưởng ứng cuộc đấu tranh do Liên đoàn công nhân cao su 
miền Đông phát động, chi bộ đồn điền Xa Cát lãnh đạo hàng trăm công nhân ở Xa Cát, Xa Cam, Làng 4 nhất loạt đứng lên đình công đề ra các yêu sách đòi tăng lương, giảm làm việc xuống còn 8 giờ một ngày, những người phu “công tra” đã làm từ 20 năm đến 30 năm phải được về thăm quê ở miền Bắc, những bị tai nạn do làm việc phải được Sở nuôi dưỡng. Tuy cuộc đấu tranh chưa đạt kết quả, nhưng đây là đợt biểu dương lực lượng lớn, buộc chủ đồn điền phải nới lỏng chính sách hà khắc đối với công nhân.
Ngày 20/10/1952 trận bão năm Nhâm Thìn ập vào miền Đông gây ra trận lũ lịch sử đã cuốn đi tất cả lúa và hoa màu. Đồng bào dân tộc các sóc cũng lâm vào nạn đói phải đào củ rừng ăn thay cơm. Lợi dụng khó khăn của ta, địch lại tăng cường càn quét, đốt phá nhà cửa, ruộng vườn, khủng bố những người chúng nghi là ủng hộ kháng chiến. Trước tình hình trên, Huyện ủy và Ủy ban kháng chiến hành chính huyện kiên quyết chỉ đạo các cán bộ, đảng viên tích cực bám sát cơ sở, vận động Nhân dân khắc phục khó khăn, tập trung cho sản xuất, bảo vệ các căn cứ, vừa chuyển hướng hoạt động đánh địch ở vùng xung yếu, phá thế bao vây của chúng, bổ sung thêm lực lượng du kích, tạo điều kiện để phát triển phong trào kháng chiến. Cán bộ và Nhân dân vừa chống càn, vừa chuyển sang sản xuất vào ban đêm để giải nạn đói.
 Từ cuối năm 1953, cuộc chiến xâm lược của thực dân Pháp ngày càng đi vào bế tắc trên các chiến trường cả nước. Nhiệm vụ của Nam bộ là chuẩn bị đón lấy thời cơ mới, khuyếch trương chiến thắng về quân sự, chính trị phối hợp với chiến trường miền Bắc. Ở tỉnh Thủ Biên quân Pháp rút đi 3 tiểu đoàn và ở Minh Đức lúc này chỉ còn bọ tề điệp. Chớp thời cơ, các cán bộ, đảng viên do đồng chí Vũ Đình Thính trực tiếp chỉ đạo đã đẩy mạnh tuyên truyền, vận động công nhân, nông dân đấu tranh vũ trang góp phần vào thắng lợi chung của cả dân tộc ngày 7 tháng 5 năm 1954.
Cuộc kháng chiến chống thực dân pháp kết thúc với bao gian khổ, ác liệt nhưng Nhân dân vẫn luôn tin tưởng vào thắng lợi, bởi cuộc kháng chiến của Nhân dân là chính nghĩa, vì độc lập dân tộc, ước mơ bao đời của nhân dân ta. Trong 9 năm kháng chiến trường kỳ, đã có 15 cán bộ, chiến sĩ là con em của Minh Đức hi sinh. Nhưng trong những tháng ngày tưởng chừng tăm tối đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhân dân được giác ngộ cách mạng, đoàn kết đấu tranh ngoan cường với kẻ thù, làm cho kẻ thù nhiều phen khiếp sợ, buộc chúng phải nới lỏng chính sách cai trị hà khắc. Đồng thời không ngừng củng cố, phát triển lực lượng, tiếp tục cùng quân dân cả nước bước tiếp vào chặng đường dài chống Mỹ cứu nước.

Nguồn tin: Lịch sử Đảng bộ xã Minh Đức. (Tái bản lần 6):

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Thống kê truy cập
  • Đang truy cập17
  • Hôm nay1,525
  • Tháng hiện tại12,557
  • Tổng lượt truy cập1,406,157
dvcqgian
dvc bp
hu hq
qlvb hq
PHÁP ĐIỂN
face book
face tu hao bp
Văn bản mới

Văn bản - Chỉ đạo điều hành

25/KT-UBND

KẾ HOẠCH RÀ SOÁT HỘ NGHÈO, HỘ CẬN NGHÈO ĐỊNH KỲ VÀ XÁC ĐỊNH HỘ LÀM NÔNG NGHIỆP, LÂM NGHIỆP, NGƯ NGHIỆP CÓ MỨC SỐNG TRUNG BÌNH TRÊN ĐỊA BÀN XÃ NĂM 2024

lượt xem: 168 | lượt tải:39

06/TB-UBND

THÔNG BÁO VỀ VIỆC CÔNG KHAI HỒ SƠ ĐĂNG KÝ BIẾN ĐỘNG ĐẤT ĐAI, TÀI SẢN GẮN LIỀN VỚI ĐẤT (NGUYỄN THỊ CHIẾN))

lượt xem: 140 | lượt tải:34

07/TB-UBND

THÔNG BÁO VỀ VIỆC CÔNG KHAI HỒ SƠ ĐĂNG KÝ BIẾN ĐỘNG ĐẤT ĐAI, TÀI SẢN GẮN LIỀN VỚI ĐẤT (NGUYỄN THỊ TIẾU)

lượt xem: 147 | lượt tải:33

10

KẾ HOẠCH TRIỂN KHAI VẬN ĐỘNG "QUỸ VÌ NGƯỜI NGHÈO" NĂM 2024

lượt xem: 232 | lượt tải:49

120

KHẨN TRƯƠNG THỰC CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG, CHỐNG BỆNH DỊCH BỆNH CÚM GIA CẦM A/H5N1 TRÊN ĐỊA BÀN XÃ MINH ĐỨC.

lượt xem: 164 | lượt tải:37
facebook minh duc
Nông thôn mới
đường dây nóng
hỏi đáp
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây